Lạng Sơn là mảnh đất địa đầu của Tổ quốc mang lịch sử hào hùng gắn liền với dân tộc và hiện tại Lạng Sơn là 1 tỉnh đang phát triển mạnh về kinh tế, an ninh quốc phòng. Không chỉ nổi tiếng bởi những khu chợ, thiên đường mua sắm gần cửa khẩu, Lạng Sơn còn thu hút khách du lịch bởi những di tích lịch sử, những câu truyện trong truyền thuyết và thiên nhiên tuyệt mỹ… Lạng Sơn có gì chơi? Cùng khám phá ngay những địa điểm du lịch nổi tiếng dưới đây để giúp bạn sắp xếp được lịch trình hợp lý trong hành trình du lịch Lạng Sơn sắp tới nhé.
Chợ Đông Kinh – Lạng Sơn
Đến Lạng Sơn mà không đi chợ thì chưa biết Lạng Sơn. Đó là câu cửa miệng của nhiều người trong cuộc “rong chơi” đến vùng biên cực kỳ hấp dẫn này. Một trong những lựa chọn của rất nhiều du khách đấy là chợ Đông Kinh, Trung tâm thương mại lớn nhất ở thành phố Lạng Sơn.
Chợ Đông Kinh – Lạng Sơn
Chợ Đông Kinh là trung tâm mua bán đồ Trung Quốc lớn nhất tỉnh Lạng Sơn nằm trên phường Vĩnh Trại, một địa chỉ quen thuộc của hàng ngàn lượt người đến thăm quan, mua sắm mỗi ngày. Được mệnh danh là thiên đường bán đồ Trung Quốc, chợ Đông Kinh lúc nào cũng nhộn nhịp khách. Không quá kỳ vọng vào chất lượng, nhiều “thượng đế” chọn mua hàng vì giá rẻ.
Chợ Đông Kinh – Lạng Sơn
Nằm ngay trung tâm thành phố, nơi này luôn có nhiều món hàng chỉ đến đây mới thấy, từ chiếc radio, điện thoại, quạt máy đủ loại, tivi nhỏ… đến những thứ rất lẩm cẩm mà nhiều khi khách mua không biết mua để làm gì. Ở đây cái gì cũng có, từ cây kim, sợi chỉ, quần áo, giày dép đến đồ chơi trẻ em, đồ gia dụng, điện tử. Gần như tất cả hàng hóa bán trong chợ đều có nguồn gốc Trung Quốc và có giá rẻ đến bất ngờ.
Đến mặt hàng rau cỏ cũng rất thu hút khách du lịch, Đặt biệt món rau Cải làn một đặc sản của Lạng Sơn được rất nhiều người chọn mua làm quà về cho gia đinh cũng như để thưởng thức thứ thực phẩm xứ Lạng.
Chợ hoạt động từ sáng sớm cho tới tận đêm khuya, mặc dù vậy nhưng chợ vẫn rất nhộn nhịp đông đúc. Từ những đồng bào dân tộc xuống trao đổi buôn bán hàng hóa nhỏ lẻ, đến các tiểu thương, công thương lớn từ bên Trung Quốc sang… tất cả đều làm cho chợ Đông Kinh trở nên tấp nập, hàng hóa phong phú.
Đông Kinh là một trong các chợ lớn nhất của Lạng Sơn, cũng là trung tâm mua sắm lớn của vùng biên giới phía Bắc. Giới tiểu thương cho biết, mỗi ngày, chợ đón hàng chục nghìn du khách thăm quan và mua sắm. Chợ đông nhất vào tháng Giêng, thời điểm diễn ra nhiều lễ hội.
Chợ Đồng Đăng – Lạng Sơn
Nằm cách chợ Đông Kinh 14km, chợ Đồng Đăng cũng có nhiều mặt hàng tạp hóa, đồ gia dụng, thủ công mỹ nghệ, và điện tử (ít hơn chợ Đông Kinh). Điểm nhấn của khu chợ này có lẽ là rau củ quả; các sản vật hạt dẻ, khoai sọ, nhiều loại rau khác nhau đều tập trung tại đây.
Chợ Đồng Đăng – Lạng Sơn
Chợ họp các ngày trong tuần với đa dạng các loại hàng hóa từ nông sản, thực phẩm, quần áo, gia súc,… Chợ mang nét đặc sắc văn hóa của người dân tộc địa phương. Chợ thu hút du khách trong và ngoài nước bởi vẻ rộn ràng, nhộn nhịp cũng như bởi việc giao lưu với những tiểu thương dân tộc giản dị nơi đây. Chợ không chỉ là một nơi mua bán, trao đổi hàng hóa, nơi này còn là điểm vui chơi, gặp gỡ du khách bè và hẹn hò trai gái. Bởi thế, các hàng quán tại đây luôn đông đúc. .
Thành nhà Mạc – Lạng Sơn
Nếu bạn thích tìm hiểu về lịch sử hoặc đơn giản là muốn có bộ ảnh mang phong cách bí ẩn, hãy đến Thành nhà Mạc tại phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn. Nơi đây chỉ còn là một di tích dài khoảng 300 mét nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp vững chãi, chắc chắn theo năm tháng.
Thành nhà Mạc – Lạng Sơn
Bức tường thành nhà Mạc không hẳn là một điểm du lịch ở Lạng Sơn quá hot nhưng là nơi gắn liền với lịch sử dân tộc. Vào thế kỷ 16 – 17, thành là căn cứ quân sự trọng yếu, làm nhiệm vụ chắn con đường độc đạo nối từ Ải Bắc xuống phía Nam. Bức tường được dựng lên nhờ thế của những ngọn núi cao như Lô Cốt, Tô Thị, tạo nên thế đứng chắc chắn và hiên ngang giữa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ xứ Lạng.
Trong hành trình khám phá Lạng Sơn, bạn có thể dành thời gian ghé đây chiêm ngưỡng công trình quân sự đặc biệt mà bậc cha ông thực hiện. Những bức tường bằng đá kiên cố nằm ngạo nghễ giữa đất trời, giữa thời gian hàng thế kỷ.
Ở giữa tường thành có cổng để đi lên núi Tô Thị. Phía dưới là hàng trăm bậc thang được xây dựng uốn lượn, giúp du khách dễ dàng leo lên đỉnh núi, phóng tầm nhìn xuống thành phố Lạng Sơn bình yên, thơ mộng.
Thành nhà Mạc đã được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia vào năm 1962, đồng thời được đưa vào khai thác du lịch từ 10 năm trước. Vì thế, đây là một điểm check in đẹp nếu bạn không biết chơi gì ở Lạng Sơn vào dịp cuối tuần hay những ngày rãnh rỗi.
Ải Chi Lăng – Lạng Sơn
Ải Chi Lăng – vùng đất địa linh nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải phía Bắc của Tổ quốc. Với địa thế hiểm yếu, ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của kinh thành Thăng Long trong việc chặn đứng các cuộc viễn chinh khét tiếng từ phương Bắc tràn sang.
Ải Chi Lăng – Lạng Sơn
Chi Lăng là ải có quy mô hoành tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dãy núi đá Kai Kinh ở phía tây và dãy núi Bảo Ðài ở phía đông. Hai đầu ải có những ngọn núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Ðại Huề…
Ngược dòng lịch sử xa xăm, con người còn để lại ở Chi Lăng những vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn – Mai Pha nổi tiếng với những hang động đẹp như trong huyền thoại và những rìu đá, mảnh gốm… minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của con người sinh sống ở nước ta.
Vào những năm trước và sau công nguyên, ải Chi Lăng đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ 14, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đã hạ một câu thơ bất hủ:
“Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời”.
Ải Chi Lăng – Lạng Sơn
Năm 1077, phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp phò mã Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan bọn xâm lược Tống lần thứ hai.
Thế kỷ 13, cả thế giới kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi cánh quân Nguyên qua ải Chi Lăng đã bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng…
Thế kỷ 15, ải Chi Lăng lại ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng – chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ 18, dưới thời Hoàng đế Quang Trung – một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh… Vào các thế kỷ 19 và 20, ải Chi Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta.
Núi Tô Thị – Lạng Sơn
Từ thị xã Lạng Sơn qua khỏi sông Kỳ Cùng là đã có thể nhìn thấy bóng dáng nàng Tô Thị, một phiến đá thiên tạo trên dãy núi đá vôi ở phía Bắc, trông giống người đàn bà ôm con ngóng trông về một phương trời xa xăm nào đó. Không biết từ bao giờ, dân gian ta gọi đó là núi Vọng Phu (trông chồng) với nhiều câu chuyện đầy huyền thoại và lãng mạn. Trên đất nước ta, trí tưởng tượng phong phú của người dân đã đặt cho nhiều ngọn núi có cái tên vọng phu, như ở Bình Định, ở Khánh Hòa chẳng hạn. Nhưng không đâu bằng Lạng Sơn, nàng Tô Thị với núi Vọng Phu đã trở thành một biểu tượng của lòng sắt son, đã là nguồn thi hứng của bao danh nhân nho sĩ lỗi lạc.
Núi Tô Thị – Lạng Sơn
Khu di tích nằm trong dãy núi đá vôi phía Tây Bắc thành phố Lạng Sơn, thuộc phường Tam Thanh, với diện tích 50 ha, nơi đây có những hang động tự nhiên kỳ thú, được bộ Văn hóa Thông tin (nay là bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia năm 1962 trong đợt xếp hạng những di tích quốc gia đầu tiên của nước ta, với những giá trị danh thắng và lịch sử văn hóa tiêu biểu. Khu di tích bao gồm động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành Nhà Mạc và Núi Vọng Phu. Bốn nét đẹp riêng kết hợp lại tạo thành một vẻ quyến rũ đặc biệt cho quần thể di tích được mệnh danh là “đệ nhất bát cảnh” của Xứ Lạng.
Núi Tô Thị – Lạng Sơn
Từ thị xã Lạng Sơn qua khỏi sông Kỳ Cùng là đã có thể nhìn thấy bóng dáng nàng Tô Thị, một tượng đá thiên tạo trên dãy núi đá vôi ở phía Bắc, trông giống một người đàn bà ôm con ngóng trông về phương xạ Trí tưởng tượng của dân miền Bắc cũng đã tạo dệt những huyền thoại tuyệt vời giống như trí tưởng tượng của dân miền Nam trước cảnh đẹp thần thoại của các tảng đá mẹ bồng con ở Bình Định, ở Khánh Hoà. Bố tôi bảo chẳng nơi nào đẹp bằng núi Vọng Phu ở Lạng Sơn. Nàng Tô Thị đã ăn sâu vào tầng lớp dân gian, đã trở thành biểu tượng của lòng chung thuỷ sắt son, đã tạo nguồn thi hứng cho bao nhiêu danh nhân nho sĩ nhạc sĩ lồi lạc xưa và nay.
Nàng Tô Thị từ lâu đã trở thành thắng cảnh nổi tiếng vào bậc nhất ở Lạng Sơn, hình ảnh người đàn bà hoá đá đó đã đi vào văn hoá người Việt với một sự cảm thông và ngưỡng mộ sâu sắc. Điều này khiến cho bất cứ ai khi đặt chân đến xứ Lạng, đều mong muốn được một lần chiêm ngưỡng thắng cảnh này. Tiếc thay, trải qua bao năm tháng, do tác động của thiên nhiên và sự khai thác đá bừa bãi của con người, di tích này đã bị hủy hoại. Tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại như nguyên bản để gìn giữ một di tích đã đi vào tình cảm của người dân Việt Nam.
Núi mặt quỷ – Lạng Sơn
Núi có hình mặt quỷ nằm ở thôn Quán Thanh (xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn). Chính vì vậy mà trước đây nơi này có tên gọi là Quỷ Môn Quan, tức là cửa mặt quỷ. Ngọn núi này có điểm đặc biệt là ở giữa khoảng xanh của cây cỏ, lộ lên một hình thù rất giống mặt của một con quái vật khổng lồ. Nhìn từ xa, khuôn mặt này có đầy đủ cả mắt, mũi.
Núi mặt quỷ – Lạng Sơn
Một điều thú vị là, dù được coi là mặt quỷ, nhưng người dân nơi đây không coi đấy là biểu tượng của cái ác, mà ngược lại, người dân cho rằng “mặt quỷ sẽ bảo vệ cuộc sống bình an cho dân làng”.
Núi Phai Vệ – Lạng Sơn
Nằm ngay tại phường Vĩnh Trại, trung tâm thành phố Lạng Sơn, cột cờ Phai Vệ với lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới đứng uy nghiêm không chỉ là địa điểm hấp dẫn khách du lịch mà còn là niềm tự hào của người dân xứ Lạng.
Núi Phai Vệ – Lạng Sơn
Đây là một điểm đến lý thú mà du khách sẽ được một lần nữa đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Mặc dù mới được xây dựng nhưng có thể nói đây là công trình có ý nghĩa vô cùng to lớn, cột cờ nằm ngay tại trung tâm thành phố Lạng Sơn, đứng trên đây bạn có thể thấy được toàn cảnh thành phố, được ngắm nhìn thành phố lúc về đêm huyền ảo và nhiều màu sắc.
Cột cờ được xây dựng trên ngọn núi Phai Vệ, cao 80 mét, với đường lên là 535 bậc đá được xây dựng cực kì kiên cố. Đứng trên cột có thể phóng tầm mắt thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố.
Toàn thân đài cột cờ được kết cấu bằng bê tông, ốp đá, lan can được dựng giả giống những thân tre xanh. Một số người còn ví von đường đến cột cờ chẳng khác gì so với phiên bản Vạn Lý Trường Thành thu nhỏ ở Việt Nam.
Núi Nà Lay – Lạng Sơn
Ở Lạng Sơn, không nhất thiết bạn phải chinh phục những đỉnh núi cao chọc trời mới có thể ngắm được bức tranh thiên nhiên mơ mộng, trữ tình của vùng đất này. Mà đôi khi, chỉ cần dành thời gian khám phá núi Nà Lay, bạn cũng đã mang về cho mình những bức ảnh đẹp cùng nhiều trải nghiệm đáng nhớ.
Núi Nà Lay – Lạng Sơn
Núi Nà Lay là một ngọn núi nằm ở Bắc Sơn với độ cao khoảng 600 mét so với mực nước biển. Đây là một điểm du lịch ở Lạng Sơn dành cho những du khách, phượt thủ có ít thời gian, muốn đi về trong ngày. Để lên được đỉnh núi, bạn phải chinh phục 1200 bậc thang đá trong thời gian khoảng 1 giờ. Với những bạn trẻ ít vận động hoặc chưa từng leo núi, đây là hoạt động khá vất vả.
Tuy nhiên, khi đặt chân lên đỉnh núi Nà Lay, bạn sẽ thấy sự cố gắng của mình hoàn toàn xứng đáng. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống là cả một bức tranh thiên nhiên quyến rũ đến mê hồn.
Những mái nhà nằm bình yên trong thung lũng, những ngọn núi cao thấp xa xa đan xen vào nhau và cả những đám mây trắng lờn vờn bay lượn,… Tất cả tạo nên sự yên bình và dễ chịu, khiến bạn quên hết đôi chân đang mỏi và cả những giọt mồ hôi còn vương trên trán.
Những dịp cuối tuần không biết chơi gì ở Lạng Sơn, bạn có thể rủ bạn bè, người thân của mình leo núi vào sáng sớm hoặc xế chiều. Ngắm bình minh hay hoàng hôn trên đỉnh Nà Lay cũng đều đẹp tuyệt vời. Điều thú vị là đứng trên đỉnh núi Nà Lay, bạn có thể phóng tầm nhìn toàn cảnh thung lũng Bắc Sơn.
Những ruộng lúa chín vàng hay dòng sông uốn lượn trong nắng đều mang nét đẹp hút hồn, một nét hoang sơ yên bình chỉ riêng xứ Lạng. Đặc biệt, để săn được những bức ảnh chất nhất, bạn nên dừng chân trên trạm viba trên đỉnh núi và mang theo flycam.
Đèo Tam Canh – Lạng Sơn
Đèo Tam Canh là một địa điểm du lịch tại Huyện Bắc Sơn (Tỉnh Lạng Sơn thuộc vùng Đông Bắc Bộ). Cách trung tâm Tỉnh Lạng Sơn khoảng 76 km.
Đèo Tam Canh – Lạng Sơn
Di tích Đèo Tam Canh thuộc khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn, nằm trên địa phận thôn Lân Luông (có một số người dân đọc thành Làn Lường) thuộc xã Long Đống, huyện Bắc Sơn. Là đoạn đèo nằm trên quốc lộ 1B giáp ranh giữa 2 huyện Bắc Sơn và Bình Gia. Ngày 23/09/1945, tại khu vực sườn núi Co Chơi (thuộc địa phận Đèo Tam Canh), quân dân Bắc Sơn đã lập chiến công phục kích tiêu diệt nhiều binh sĩ Nhật khi chúng kéo vào Bắc Sơn.
Năm 2016 di tích được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt, theo Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Động Tam Thanh – Chùa Tam Thanh – Lạng Sơn
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của xứ Lạng với câu ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Động Tam Thanh – Chùa Tam Thanh – Lạng Sơn
Trong động Tam Thanh có chùa, gọi là chùa Tam Thanh, còn có tên gọi khác là chùa Thanh Thiền. Trong cuốn “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử quán triều Nguyễn có viết rằng: “Chùa này nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, cửa mây nhũ đá trong sạch, không bụi trần. Người địa phương cùng người Minh Hương tô tượng phật phụng thờ, lại có tên nữa là Chùa Thanh Thiền”.
Về niên đại: Qua các tài liệu thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa Tam Thanh có từ thời Lê. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở chùa hiện nay là bia “Trùng tu Thanh Thiền động”, được chế tác vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), nội dung tấm bia ghi chép về việc trùng tu di tích, quá có có thể nói rằng chùa này đã có từ trước đó.
Về tên gọi: Theo các nhà nghiên cứu cho rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ tự của Đạo Giáo, do vậy Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây là ba cung Thanh cao nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một vị thần cai quản, đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo Thiên Quân (Thượng Thanh Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão Quân). Sau này do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, Đạo Giáo mờ nhạt trong tâm thức dân chúng địa phương, người ta đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào thờ ở trong chùa là chính. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam Bảo (thờ Phật), Cung Đức Ông, Cung Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh, Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà), Cung Sơn Trang. Trong động Tam Thanh hiện nay, các dấu tích của Đạo Giáo chỉ còn lại cái tên Tam Thanh và ngày lễ hội chính của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng là một biểu hiện Đạo Giáo khi xưa (một ngày lễ hội lớn trong Đạo Giáo).
Chùa Tam Thanh nổi tiếng bởi những giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay trong chùa còn có một hệ thống bia Ma Nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử liệu và văn hoá nghệ thuật do các văn thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu lại. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô Phủ, Đô Đốc Thiên Sự Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê – Vĩnh Trị thứ 2 (1677) bia có tên là: “Trùng tu Thanh Thiền Động” nội dung bia ghi lại việc hưng công trùng tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả Ngô Thì Sĩ tạc vào năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của di tích. Ngoài ra là hai bài thơ của hai vị quan triều Nguyễn (Đoàn Đình Duyệt và Tôn Thất Tố) cho tạc khắc khi theo giá vua khải Định năm 1918 ra tuần thú miền Bắc, nội dung ca ngợi vẻ đẹp danh thắng này. Tại di tích hiện còn có tấm bia chữ Nôm do tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng Vận viết năm 1924, bia có nội dung ca ngợi cảnh đep của di tích và được phiên âm với nội dung:
“Xanh xanh xanh ngắt trấn thành Tây
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
Gió mây đưa đón thoảng làn mây
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ
Lửa ngất non tình đá cũng ngây
Trải mấy tang thương lầm bụi tục
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây”
Động Tam Thanh – Chùa Tam Thanh – Lạng Sơn
Chùa Tam Thanh là một ngôi chùa đặc biệt, được bố trí trong hang đá, không có kiểu kiến trúc giống như những ngôi chùa khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể thấy hệ thống thờ tự được sắp xếp theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Đặc biệt trong chùa còn lưu giữ bức phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc theo thế đứng vào vách đá trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo của di tích.
Đi sâu vào trong Động, ở khu trung tâm có hồ Âm Ty, nước không bao giờ vơi cạn, hồ tuy nhỏ nhưng nước chảy suốt ngày đêm, trên các trần hang có nhiều nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa với những hình tượng sinh động kỳ bí: cây Ngô Đồng, Tiên Ông, Sư Tử, Voi… Đi vào bên trong ta bắt gặp một sân khấu nhỏ, xung quanh có những nhũ đá nhiều hình thù khác nhau do thiên nhiên tạo nên, có hai cửa thông thiên, ánh sáng từ hai cửa này soi rọi vào động làm cho những nhũ đá đẹp lạ thường. Cạnh khu vực sân khấu có lối dẫn lên cổng trời, tại đây ta có thể đứng ngắm nhìn quang cảnh của một vùng nông thôn quanh khu vực di tích. Phía ngoài cửa động Tam Thanh hiện nay còn có nhà sàn và mô hình cọn nước, cối giã gạo đặc trưng của người dân tộc Tày Lạng Sơn.
Động Nhị Thanh – Chùa Tam Giáo – Lạng Sơn
Động Nhị Thanh được danh nhân Ngô Thì Sĩ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc Trấn Lạng Sơn từ năm 1777 – 1780. Ông là một bậc hiền thánh đã có công lao to lớn trong việc mở mang ruộng đất, yên ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian ngao du sơn thuỷ trong vùng, Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và cho hưng công xây dựng chùa Tam Giáo, Đình duyệt quân, Thạch miên am, Thụy tuyền hiên, Trai táo. Ngô Thì Sĩ bắt đầu cho tiến hành việc tôn tạo từ tháng Trọng Thu năm Kỷ Hợi (tức tháng 5 năm 1779 âm lịch) đến tháng Mạnh Thu (tức tháng 7) cùng năm thì hoàn thành.
Động Nhị Thanh – Chùa Tam Giáo – Lạng Sơn
Ngô Thì Sĩ là người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đỗ đạt làm quan, để tưởng nhớ đến quê hương, Ông đã dùng hai chữ Thanh của quê hương đặt cho tên hiệu của mình là: Nhị Thanh Cư Sĩ và sau này khi phát hiện ra động Nhị Thanh, Ông đã dùng chính tên hiệu của mình đặt tên cho động, chính vì vậy mà động có tên gọi là động Nhị Thanh. Tại đây, người xưa đã khắc chân dung Ngô Thì Sĩ trên hốc đá nhỏ ở độ cao 8m trong tư thế Kiết Già ngồi dựa vào vách đá giống như người thật của ông. Đây là bức chạm khắc chân dung có giá trị nghệ thuật độc đáo được tạo tác vào đá nhưng không làm mất đi vẻ mềm mại của thân thể (trong bia Ma Nhai Bài Ký Động Nhị Thanh nói rõ về điều này). Ngày nay nhằm báo đáp công ơn của Ngô Thì Sĩ, nhân dân trong vùng đã cho xây dựng ban thờ Ông ngay trong động Nhị Thanh.
Ngày 28 tháng 7 năm 1779 âm lịch, Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội tại nơi đây, trên chùa Tam Giáo thì tế lễ, trong động Nhị Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7 ngày 7 đêm. Trong bia Ma Nhai “Bài ký động Nhị Thanh” có ghi về việc này như sau: Đêm đầu mở hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông Thiên vòng quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm không còn sợ hãi nữa; lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường múa rối nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc thì không thấy đâu nữa nên mọi người dự hội ai cũng cho là lạ. Sau đó Ngô Thì Sĩ đã cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa động Nhị Thanh để ghi nhớ hai con vật linh thiêng.
Phía bên phải động Nhị Thanh là chùa Tam Giáo (Tam Giáo Tự). Ngô Thì Sĩ cho rằng đạo là một mà thôi, Phật – Lão chỉ khác tên nhưng nội dung đều là Nho cả. Khổng Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca tuy tên là ba nhưng thực đạo đều thống nhất là một. Chính vì vậy Ông đã đưa 3 đạo vào thờ chung một chùa và gọi là chùa Tam Giáo.
Động Nhị Thanh – Chùa Tam Giáo – Lạng Sơn
Chùa Tam Giáo còn là một loại hình kiến trúc đặc biệt: Không có mái, không có nhà, ban thờ được đặt trong các hang, hốc đá làm cho ta có cảm giác thiên tạo với những nhũ đá kỳ vĩ càng tạo nên sự linh thiêng của ngôi chùa. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Công Đồng, Cung Tam Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo…
Bên trái chùa Tam Giáo là đường vào động Nhị Thanh và suối Ngọc Tuyền trong vắt ẩn hiện dưới lùm cây trông thật nên thơ hữu tình. Phía ngoài động trên cao có dòng chữ Hán “Nhị Thanh Động” với khổ chữ lớn khắc chìm vào vách đá. Vào phía trong động trên vách bên phải là hệ thống bia Ma Nhai với 20 văn bia đủ mọi kích thước xen kẽ nhau. Nội dung bia chủ yếu ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người Xứ Lạng, ghi lại việc phát hiện, tạo dựng động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo của các bậc tiền nhân, trong đó có bài “Nhị Thanh động phú” tức bài phú động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ viết năm 1779 cùng bài thơ tự tán của Ông khi mới phát hiện và đặt tên cho động Nhị Thanh và các bài viết của tiến sĩ Lê Hữu Dung – Phụng sai Đốc đồng xứ Lạng Sơn tham hiệp quân vụ năm 1780 cùng nhiều bài viết của các danh nhân thi sĩ khác.
Đi thêm khoảng 100m, qua 2 chiếc cầu kiều bắc qua những khúc suối quanh co đã mở ra một không gian rộng lớn với nóc hang cao vút, có cửa thông thiên, phía trong có một thác nước đổ xuống theo khe đá hoà nhập cùng với suối Ngọc Tuyền chảy ngầm dưới nền Động, tạo nên những âm thanh huyền bí. Vào năm 1779, Ngô Thì Sĩ viết trong “Bài Ký Động Nhị Thanh” rằng: “Người đi thuyền phải cúi rạp xuống, dùng tay vịn vào vách đá đẩy thuyền mới qua được và do suối chảy dưới nền động nên không thấy dòng suối đâu”.
Dưới chân thác nước, Ngô Thì Sĩ cho tôn một thềm đất cao để làm sân khấu. Tại đây ông đã chọn làm nơi trung tâm vui chơi giải trí trong ngày mở hội ăn mừng sau khi xây dựng xong chùa Tam Giáo và cải tạo động Nhị Thanh, sau này nơi đây trở thành nơi hội họp biểu diễn văn nghệ của nhân dân trong những năm đế quốc Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc nước ta. Trên nóc động có khe nhỏ ánh mặt trời rọi qua, được người dân gọi là hang Thông Thiên. Trong “Bài Phú Động Nhị Thanh” có câu:
“Hang gọi tên Thông Thiên
Ánh mặt trời hơi đỏ”
Ngô Thì Sĩ còn cho khắc ba chữ lớn trên nóc hang là “Hang Thông Thiên”.
Vòng sau cánh gà sân khấu qua khúc ngoặt là đến hang Giao Long, ta như lạc vào “vườn thạch nhũ”, chỗ rộng nhất đến 25m, chiều dài hút tầm mắt, trần và nền hang tương đối bằng phẳng có muôn hình nhũ đá với các hình thù khác nhau: hình con voi phục, hình rùa đang bò… Nhiều cột đá đứng bên mép suối đỡ lấy trần hang, nhiều nhũ đá rủ, mầm đá cao thấp như những bức rèm lớn vắt lên hai bên thành động, cảnh sắc thiên nhiên thật kỳ vĩ. Đi tiếp ra phía sau qua 3 cây cầu là đến cổng sau thông ra bên ngoài. Từ đây có thể quan sát thấy cửa động Tam Thanh với khoảng cách là 500m.
Hang Cốc Mười – Lạng Sơn
Hang Cốc Mười hay hang Bãi Đá, là hang động trong dãy núi đá vôi ở bản Lũng Phầy xã Chí Minh huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn.
Hang Cốc Mười – Lạng Sơn
Hang Cốc Mười thuộc loại karst trong núi đá vôi. Hang được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 77/2004/QĐ-BVHTT ngày 23/08/2004 của Bộ Văn hóa – Thông tin.
Hang Cốc Mười ở là cơ sở in ấn tài liệu và là địa điểm hoạt động bí mật của chi bộ Phi Mỹ những năm trước cách mạng tháng Tám. Sau khi thành lập (4- 1938) và đi vào hoạt động, chi bộ Phi Mỹ đã đặt cơ sở In tại hang Cốc mười do đồng chí Quốc Bình (Giáo Lợi) phụ trách. Toàn bộ tài liệu, báo chí, truyền đơn, văn bản hoạt động của chi bộ Phi Mỹ đều từ cơ sở này mà ra.
Hang Lạng Nắc – Lạng Sơn
Hang Lạng Nắc có tên gọi khác là hang Miệng Hổ hoặc hang Treo (tên gọi của nhân dân địa phương). Hang Lạng Nắc nằm trong dãy núi đá vôi xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn. Hang ở ngay cạnh cây số 32 Quốc lộ 1A (cũ), cách thị trấn Đồng Mỏ 5km về phía Đông Bắc, cách UBND xã Mai Sao 400m về phía Nam.
Hang Lạng Nắc – Lạng Sơn
Đường đi đến chân núi thuận tiện, có thể dùng phương tiện ô tô. Nhưng để leo lên cửa hang thì cần có thêm một chút sức khỏe và sự kiên nhẫn của vận động viên leo núi. Hang Lạng Nắc ở độ cao khoảng 100m so với mặt thung lũng. Cửa hang rộng 18m, cao 16m, hướng về phía Đông, chếch Nam khoảng 200, rất thoáng mát, khô ráo. Chiều sâu của hang là 17m, mặt hang bằng phẳng, rộng khoảng 70m2. Dưới chân núi hang Lạng Nắc có suối Mai Sao, là đầu nguồn của sông Thương.
Hang Thẩm Khuyên – Lạng Sơn
Nhắc đến Bình Gia – Lạng Sơn thì không thể nhắc đến hang Thẩm Khuyên – một di tích khảo cổ học cổ sinh dạng hang động, nơi phát hiện những dấu tích của người và động vật cổ ở Việt Nam. Nơi đây thực sự là một địa danh vô cùng hấp dẫn để các bạn khám phá.
Hang Thẩm Khuyên – Lạng Sơn
Đây là một trong những hang được người dân biết đến từ rất lâu, nhưng phải đến năm 1906 khi có một nhà khảo cổ người Pháp tên là Henri Mansuy đã phát hiện ra các di chỉ của người tiền sử và khai quật được nhiều đồ đá, đồ gốm thuộc hậu kỳ đồ đá mới. Di tích này đã giúp các nhà nghiên cứu khoa học có được những lượng thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu xác định niên đại của lớp vỏ trái đất, sự phát sinh phát triển cũng như sự diệt vong của các loài động vật qua từng thời kỳ địa chất khác nhau, góp phần cống hiến to lớn cho nghiên cứu cổ sinh, nhân chủng học.
Năm 1993, đoàn nghiên cứu cổ sinh Việt – Mỹ – Australia tiến hành khảo sát thu được một số mẫu trầm tích và hóa thạch, khẳng định hang Thẩm Khuyên có niên đại cách đây 250 nghìn năm. Hang Thẩm Khuyên là một tài liệu vô cùng quý báu cho nền khoa học thế giới, cũng như nền khoa học Việt Nam.
Thông qua di tích này, các bạn sẽ tìm hiểu được nhiều thông tin về lịch sử, cội nguồn của loài người. Và đặc biệt là các bạn sẽ cảm thấy vô cùng tự hào vì đã được ngắm nhìn những di tích cổ đại. Thêm vào đó, các bạn sẽ thấy cảnh sắc núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ của đất nước ta.
Ngày 16 tháng 12 năm 1993, di tích hang Thẩm Khuyên đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo quyết định số 2015 QĐ/BT của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam.
Hang Khuôn Bồng – Lạng Sơn
Hang Khuôn Bồng nằm tại xã Vũ Lễ, là địa điểm dành riêng cho những bạn trẻ ưa thích khám phá và trải nghiệm.
Hang Khuôn Bồng – Lạng Sơn
Lòng hang dài hơn 10km với những thạch nhũ, nhũ đá ấn tượng. Mang đến cho du khách trải nghiệm cực kỳ thú vị khi được khám phá cảnh quan còn nguyên vẻ hoang sơ với vô vàn các loại thạch nhũ. Bởi mới ít người biết đến địa điểm này nên không ngạc nhiên rằng nó rất vắng vẻ, nhóm bạn và gia đình hoàn toàn có thể yên tĩnh tận hưởng những giây phút thư thái cùng nhau.
Nhà Thờ Chánh Tòa – Lạng Sơn
Nhà thờ chánh tòa Lạng Sơn nằm tại thành phố Lạng Sơn của tỉnh Lạng Sơn. Kiến trúc nhà thờ được kết hợp bởi kiểu nhà sàn các dân tộc Miền núi phía Bắc và bộ mái cong kiểu cung đình Việt Nam.
Nhà Thờ Chánh Tòa – Lạng Sơn
Có diện tích chiều ngang 30m và sâu 25m cả hành lang, có ba lối để lên sàn nhà thờ, nhà thờ có hai mái bộ xếp lên nhau khoảng cách bằng một bức tranh kính mầu, mái trên tượng trưng cho Trời, mái dưới tượng trưng cho Con Người, sàn móng vuông tượng trưng cho Đất, theo quan niệm Thiên, Địa, Nhân, Hoà, nghĩa là con người được hoà giải với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô qua Mầu Nhiệm Thập giá. Cây tháp chính năm tầng được xây dựng liền với tiền sảnh nhà thờ ngụ ý nói đến Mầu nhiệm Năm Sự Sáng và năm yếu tố tổng hợp, vũ trụ quan Đông phương: Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ.
Hai hướng Bắc – Nam của nhà thờ xây hai tháp nhỏ có hai tầng, mỗi tháp treo một đèn lồng bằng gỗ thắp sáng, phía Bắc ngầm nói đến ý truyền giáo lên tỉnh Cao bằng và Hà Giang, phía Nam nói đến công việc truyền giáo cho tỉnh Lạng sơn. Tất cả các mái nhà thờ và mái các tháp, đầu mái hơi cong lên và được lợp ngói âm dương màu xanh, diễn tả tâm hồn siêu thoát muốn vươn lên tới Chúa và ngầm hiểu về con thuyền của nền Văn hoá Nông nghiệp Việt nam.
Chùa Bắc Nga – Lạng Sơn
Chùa Bắc Nga thuộc thôn Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, nằm trên trục đường 4B (Lạng Sơn – Lộc Bình) và bên dòng sông Kỳ Cùng (đoạn xã Gia Cát), cách thành phố Lạng Sơn 12 km về hướng đông nam.
Chùa Bắc Nga – Lạng Sơn
Qua tích chuyện lưu truyền trong dân gian, rằng nơi đây cảnh đẹp, thường có bầy tiên nữ bay về hái hoa, bắt bướm và tắm ở khúc sông Kỳ Cùng này. Sau đó, nhân dân trong vùng đã góp công, góp của xây dựng Miếu thờ Tiên tại đây với mong muốn các tiên nữ phù hộ cho dân làng một cuộc sống bình an hạnh phúc và lấy ngày 15 tháng Giêng hàng năm để làm Lễ hội Chùa, mời Tiên, mời Phật về phù hộ cho dân làng được bình an, hạnh phúc. Sau này cũng có nhiều tiền nhân, công thần văn sĩ ngưỡng mộ cảnh đẹp đã phát tâm, bỏ tiền trùng tu, tôn tạo miếu thờ Tiên, sau thành chùa thờ Tiên, rồi thờ Phật, gọi là Chùa Bắc Nga (Tiên Nga Tự).
Chùa Bắc Nga nằm trên sườn đồi rộng thoai thoải ở vị trí sơn thủy hữu tình, lưng tựa núi, mặt hướng ra quốc lộ 4B và dòng sông Kỳ Cùng trong xanh uốn lượn tạo nên thế “rồng chầu hổ phục” theo thuyết phong thủy. Kiến trúc trong chùa bài trí khá đơn giản, tuy không thật sự bề thế như nhiều ngôi chùa khác nhưng chùa Bắc Nga từ lâu đã nổi tiếng linh thiêng, thu hút rất nhiều du khách thập phương đến tham quan và nguyện cầu, nhất là ngày hội chùa Bắc Nga.
Chùa Tà Lài – Lạng Sơn
Chùa Tà Lài (chùa Thanh Hương) nằm ở lưng chừng núi Phia Chàu thuộc thôn Tà Lài, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, cách thành phố Lạng Sơn 20 km.
Chùa Tà Lài – Lạng Sơn
Chùa Tà Lài do một nữ đô đốc thuộc dòng họ Nguyễn Đình hưng công xây dựng từ thế kỷ XVIII (thờ Phật) khi bà theo quận công Nguyễn Đình Lộc lên trấn ải Lạng Sơn. Chùa gồm có cung Tiền Đường (ở ngoài), cung Tam Bảo ở trong hang núi (Chùa Hang). Trải qua một thời gian dài tồn tại, Chùa bị hư hỏng và xuống cấp. Từ đó đến nay, Chùa đã được trùng tu nhiều lần, gần đây nhất vào năm 2006 Chùa được tu bổ, tôn tạo với quy mô lớn, hệ thống cung thờ và tượng thờ được bổ sung phong phú hơn (cung Mẫu, cung Sơn Trang, các tượng Mẫu…) thể hiện sự phối thờ: “Tiền Thánh – Hậu Phật” tại chùa Tà Lài.
Trải qua những thăng trầm và biến cố của lịch sử, chùa Tà Lài vẫn luôn tồn tại cùng với thời gian và trở thành điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của người dân địa phương và du khách thập phương.
Chùa Tiên – Giếng Tiên – Lạng Sơn
Hang động chùa Tiên và Giếng Tiên: Cách cầu Kỳ cùng khoảng nửa cây số, trên đường đi Mai Pha, có núi đá hình voi nhô lên giữa cánh đồng. Đó là núi đại tượng, nơi đây có động Chùa Tiên, là một trong bát cảnh mà Ngô Thì Sĩ đã ghi nhận. Động Chùa Tiên Nằm ngang chừng núi, lối lên có 64 bậc, cửa phụ quay về hướng đông, có cửa thông hiên, có đường xuống hồ thu thuỷ.
Chùa Tiên – Giếng Tiên – Lạng Sơn
Chùa Tiên có tên chữ Song Tiên tự, do dân làng Phai Luông lập thời vua Lê Thánh Tông trên núi Đại Tượng cạnh giếng Tiên. Sau này chùa bị hư, người ta mới chuyển vào động núi Đại Tượng như hiện nay.
Chùa Tiên phối thờ Phật, Mẫu và Đức Thánh Trần, có bố cục kiểu “tiền Phật hậu Thánh” gồm cung tam bảo thờ Phật phía ngoài và cung thờ Mẫu, Đức Thánh Trần ở phía trong. Nơi đây còn lưu giữ một hệ thống văn bia phong phú của các văn nhân, thi sĩ, trong đó có bài “Trấn doanh bát cảnh” do Ngô Thì Sỹ cảm tác ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên xứ Lạng. Hàng năm chùa Tiên mở hội ngày 18 tháng Giêng âm lịch, cùng với chùa Nhị Thanh – Tam Giáo (15 – 17 tháng Giêng âm lịch) và Tam Thanh (15 tháng Giêng âm lịch) tạo nên một dịp trẩy hội đông vui.
Đằng sau núi Voi – Chùa tiên ở lưng chừng núi trên mặt bằng đá rộng đó là Giếng tiên, miệng giếng rộng 20cm có mạch nước quý chảy quanh năm.
Chùa Tân Thanh – Lạng Sơn
Lạng Sơn sở hữu rất nhiều ngôi chùa với kiến trúc đẹp, trong đó phải kể đến chùa Tân Thanh. Đến với chùa Tân Thanh bạn không chỉ được vãn cảnh, được cầu nguyện cho những mong muốn của bản thân mà còn được chiêm ngưỡng những nét kiến trúc độc đáo nơi đây.
Chùa Tân Thanh – Lạng Sơn
Nằm cách thành phố Lạng Sơn 28 km, chùa Tân Thanh là một trong những ngôi chùa linh thiêng tại xứ Lạng. Đây cũng là ngôi chùa nằm ở khu vực cửa khẩu Tân Thanh và sát biên giới Việt – Trung. Được xây dựng mới từ năm 2015 tại xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, chùa Tân Thanh có diện tích 21ha và tổng kinh phí xây dựng lên tới 500 tỷ đồng. Một điều đặc biệt là nguồn kinh phí để xây dựng chùa đều là do các Phật tử trong và ngoài nước quyên góp.
Hiện nay có rất nhiều ngôi đền, chùa xây dựng theo các phong cách kiến trúc Trung Quốc, Ấn Độ. Tuy nhiên, chùa Tân Thanh lại được xây dựng với phong cách thuần Việt. Chính điều này đã khiến nhiều du khách thích thú bởi đến đây họ sẽ được khám phá những công trình kiến trúc Phật giáo của người Việt cổ xưa.
Đến với mỗi ngôi đền, chùa bạn sẽ thấy các tấm bia, biển hiệu đều sử dụng chữ Hán Nôm hoặc chữ Hán. Nhưng điều này lại không hề có tại chùa Tân Thanh. Đến đây toàn bộ các biển bảng, phiến đá trong chùa đều sử dụng chữ quốc ngữ. Một trong những điều ấn tượng nhất mà khó có ngôi chùa nào làm được chính là từng viên gạch tại chùa Tân Thanh đều được khắc dòng chữ: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM – PHẬT LỊCH 2559 KHỞI TẠO CHÙA TÂN THANH”. Ngôi chùa như một lần nữa khẳng định rằng từng viên gạch, từng tấc đất đều là của đất nước và người dân Việt Nam.
Chùa Thành – Lạng Sơn
Chùa Thành là một ngôi chùa cổ, tọa lạc tại đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Chùa Thành trước kia nằm ở cạnh Đoàn thành Lạng Sơn thuộc xã Mai Pha – Châu Ôn, do nhân dân trong vùng lập nên vào khoảng thế kỷ XV (thời Lê), lúc đó chùa có tên gọi là chùa Hương Lâm nhưng vì ở cạnh Đoàn Thành nên người dân quen gọi là Chùa Thành. Vào năm 1796, dưới triều vua Cảnh Thịnh, Chùa được chuyển về địa điểm hiện nay cách vị trí cũ khoảng 200m) và lấy tên là Diên Khánh Tự.
Chùa Thành – Lạng Sơn
Chùa Thành là một tổng thể kiến trúc xây dựng theo kiểu “Nội công ngoại quốc”. Ngoài cùng là cổng Tam quan, quay về hướng Tây, được xây dựng theo kiểu chồng diêm: 2 tầng 8 mái, bên trên có đắp “Lưỡng long chầu nhật”. Bên trong Tam quan là tòa Đại bái, phương đình, chính điện, hậu cung… Về phía bên phải, cách khoảng sân nhỏ là nhà Tổ và cung Mẫu.
Về nội thất, chùa Thành có một hệ thống tượng pháp rất phong phú, đa dạng, tập trung chủ yếu ở tòa Thượng điện. Toàn bộ hệ thống tượng thờ (gồm 53 pho tượng lớn, nhỏ) của chùa Thành được đúc bằng đồng nguyên khối. Năm 2007, hệ thống tượng thờ này đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là “Ngôi chùa có hệ thống tượng thờ bằng đồng nguyên khối nhiều nhất Việt Nam”. Bên cạnh đó, các hoành phi, câu đối của chùa cũng được chạm khắc tinh xảo. Nhiều bộ được sơn son thếp vàng và có tuổi hàng trăm năm
Đặc biệt, trong chùa hiện còn lưu giữ quả chuông nặng 600 kg được đúc từ năm Cảnh Trị thứ 9 (1671) dưới triều vua Lê Huyền Tông và tấm bia Diên Khánh tự bi ký (Bài ký bia chùa Diên Khánh) dựng năm 1796 dưới triều vua Cảnh Thịnh.
Đây là một ngôi chùa thờ Phật nổi tiếng ở Lạng Sơn trong suốt nhiều thế kỷ qua. Đến với Chùa Thành trong thời điểm hiện nay, quý khách còn được chiêm ngưỡng pho tượng Phật ngọc Thích ca mâu ni thiền định, nặng hơn 30 tấn, mới được phật tử cúng tiến vào đầu năm 2013./.
Đền Kỳ Cùng – Lạng Sơn
Nằm ở phường Vĩnh Trại, bên phía bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đền được coi là nơi linh thiêng, vốn là nơi thờ thần Giao Long (thần sông nước) với nhiệm vụ giữ cho quanh năm mưa thuận gió hòa.
Đền Kỳ Cùng – Lạng Sơn
Lịch sử của Đền còn gắn với truyện kể về quan lớn Tuần Tranh, được triều đình nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, trong thời gian ở tại Lạng Sơn, ông chỉ huy đánh giặc bị thua, quân lính thiệt mạng rất nhiều, ông lại bị vu cáo vào tội dâm ô, đành nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sạch, ông được thần linh hóa thành đôi rắn (ông Cộc – ông Dài) làm vị thần sông ngự tại đền Kỳ Cùng. Về sau, nỗi oan khuất của ông được một vị tướng nhà Lê là Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài (được thờ tại đền Tả Phủ) chứng minh, hóa giải. Vì vậy mới có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch giống như đền Tả Phủ), phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài. Điều này giải thích cho sự liên quan mật thiết của hai lễ hội đền Kỳ Cùng – T Phủ.
Trong đền có bến đá Kỳ Cùng là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong “Trấn doanh bát cảnh” xưa Ngô Thì Sỹ gọi với cái tên Kỳ Cùng thạch độ. Sở dĩ như vậy là vì theo sử sách chép lại, ngày xưa bất cứ cuộc hành quân hay cuộc hành trình nào của các sứ giả qua lại Trung Quốc cũng đều phải qua nơi nay. Thuyền bè san sát, hai bờ sông lúc nào cũng tấp nập đông đúc vì dân chúng hoặc quan quân hội tụ. Khúc sông Kỳ Cùng ở đoạn này có nhiều tảng đá chắn ngay giữa dòng sông, đá lô nhô trên mặt nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông, lúc lên lúc xuống tạo thành những lớp sóng tung bọt trắng xóa, trào khắp một dải tràng giang, trông rất ngoạn mục. Tương truyền các sứ thần của Việt Nam mỗi lần đi sứ sang Trung Quốc đều dừng chân tại bến đá, sửa soạn lễ vật lên thắp hương tại đền Kỳ Cùng, cầu cho chuyến đi được bình an, công thành danh toại.
Ngày nay Cầu Kỳ Cùng được xây ở ngay cạnh bến đá, nối hai bờ Bắc và Nam sông Kỳ Cùng, chia Thành phố Lạng Sơn thành hai khu vực, bên bờ Bắc là nơi sinh hoạt, kinh doanh buôn bán của nhân dân thành phố Lạng Sơn, bên bờ nam là khu vực tập trung các cơ quan hành chính của Lạng Sơn.
Đền Tả Phủ – Lạng Sơn
Đền Tả Phủ nằm ở phố chợ Kỳ Lừa, thuộc phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng từ năm Chính Hòa thứ 4 (1683) để thờ một vị quan tướng thời Hậu Lê tên là Thân Công Tài, chức Tả đô đốc Hán quận công. Ông quê ở tỉnh Bắc Giang, được triều đình trọng dụng, bổ nhiệm lên Lạng Sơn làm phó tướng nhận chức Đô đốc giúp việc cho Vi Đức Thắng, trấn giữ nơi biên thùy. Trong thời gian ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo giữ gìn biên ải, ông còn có công mở 7 con đường, lập nên 7 phường cho phố chợ Kỳ Lừa, giúp Lạng Sơn có nơi buôn bán phồn vinh, thu hút cả người Trung Hoa ở bên kia biên giới đến làm ăn, buôn bán.
Đền Tả Phủ – Lạng Sơn
Đền Tả Phủ có hướng cửa chính quay về hướng Tây, nằm trên thế đất cao tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng với kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ Công. Nối liền giữa hai tòa là tường vây có trổ 2 cổng nhỏ đi xuyên vào trục chính đạo. Khoảng giữa của hai tòa là một khoảng sân nhỏ trước đây có tấm bia đá tạo dựng năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (năm 1683); bia có tiêu đề “Tôn sư phụ bi” (bia ghi việc tôn thờ người làm thầy, làm cha), mặt bên ghi dòng chữ “Lưỡng quốc khách nhân” với nội dung ghi lại việc nhân dân 2 nước Việt – Trung ghi tạc công lao của Thân Công Tài với Lạng Sơn và việc mở mang thương trường buôn bán tại đây.
Lễ hội truyền thống của nhân dân trong vùng được tổ chức tại đền Tả Phủ từ ngày 22 đến ngày 27 tháng Giêng hàng năm với tên gọi Lễ hội Đầu pháo Kỳ Lừa, có liên quan mật thiết với lễ hội đền Kỳ Cùng, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách tham dự.
Đền Cửa Đông – Lạng Sơn
Đền Cửa Đông nằm ở phía đông Thành cổ Lạng Sơn, nay là số 67A đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, bên bờ phía Tây của dòng sông Kỳ Cùng.
Đền Cửa Đông – Lạng Sơn
Đền có tên chữ là Đông Môn Từ và tên cũ là Đền Bạch Đế hay Đền Quan Lớn Tam Phủ. Trong sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” ghi chép: “Đền Bạch Đế nằm ở phía Đông tỉnh thành. Địa phận xã Mai Pha thuộc Châu Ôn, thờ Thủy Thần”. Theo các nhà nghiên cứu nhận định và căn cứ vào một số tài liệu ghi chép về đền, cho rằng Đền được xây dựng muộn nhất là vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Đối tượng thờ chính của Đền là thần Bạch Đế (tức là thờ thủy thần, thần sông, thần rắn), đó là đặc trưng của cư dân nông nghiệp gieo trồng lúa nước thờ tự theo mô típ “Ông Cộc – Ông Dài” thần sông nước như trong các truyền thuyết của Việt Nam.
Đền là một di tích tôn giáo – tín ngưỡng được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, cửa chính đền quay hướng chính Đông nhìn ra sông Kỳ Cùng, cổng vào Đền quay mặt hướng chính Tây, trên bức tường sau Đền ở phía tây có trang trí và đắp hai chữ đại tự lớn “Đông Môn”, cổng Đền liền kề ngay đó về phía tay phải. Cấu trúc Đền gồm 3 phần liền nhau: Nghi môn – Chính điện – Tả hữu vu.
Đền Cửa Đông hiện nay ngoài thờ thần sông “Bạch Đế” còn là nơi thờ Mẫu và Đức Thánh Trần.
Đền Cửa Tây – Lạng Sơn
Đền Cửa Tây nằm ở phía tây Thành cổ Lạng Sơn, nay là đường Trần Hưng Đạo (quốc lộ 1A cũ Lạng Sơn – Hà Nội), phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đền được xếp hạng di tích Quốc gia năm 2013 và là một trong 4 ngôi đền trấn giữ bốn hướng của Thành cổ Lạng Sơn.
Đền Cửa Tây – Lạng Sơn
Đền có tên chữ là Ngũ Nhạc Linh Từ, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, thờ Trần Hưng Đạo và các vị Thánh Mẫu. Kiến trúc của đền gồm 2 tòa nhà: Tòa thứ nhất là điện thờ Mẫu, toà thứ 2 kiến trúc theo kiểu chữ Đinh thờ Đức Thánh Trần và các gia tướng: Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu cùng các Hoàng Tử và Công chúa. Đây là một trong những đền thờ vọng Đức Thánh Trần ở Lạng Sơn.
Hiện nay trong đền vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Hoành phi, câu đối, hệ thống tượng thờ, chuông… Ngoài ra, Đền còn có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu.
Đền Cửa Tây ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, còn là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa phương cũng như khách thập phương. Lễ hội đền Cửa Tây được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Vào ngày này, các gia đình, các Tổ liên gia trên địa bàn bày biện, sắm sửa các mâm lễ dâng lên đền để cầu cho Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.
Đền Cửa Tây cùng với “Tứ trấn” và Thành cổ Lạng Sơn xứng đáng là một điểm di tích lịch sử văn hóa hứa hẹn du khách phương xa khi đặt chân đến thăm Lạng Sơn không thể không đến nơi này.
Đền Cửa Nam – Lạng Sơn
Đền Cửa Nam nằm ở phía nam Thành cổ Lạng Sơn, nay thuộc phố Cửa Nam, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, cách Cổng thành phía nam Thành cổ Lạng Sơn khoảng 100 m;
Đền Cửa Nam – Lạng Sơn
Đền Cửa Nam được xây dựng cùng thời điểm với các đền cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc vào khoảng cuối thế kỷ XVIII và được xếp hạng di tích Quốc gia năm 2013. Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh chuôi vồ, cửa chính của Đền quay về hướng Bắc. Đền thờ Mẫu (hệ tứ phủ) và thờ vọng Đức Thánh Trần (Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn).
Đây là một di tích kiến trúc nghệ thuật có ý nghĩa lịch sử quan trọng; cùng với các đền: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Bắc có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn, tạo nên sức mạnh cho Thành cổ làm nhiệm vụ trấn giữ, phòng thủ biên giới nơi địa đầu của Tổ quốc.
Lễ hội truyền thống của di tích đền Cửa Nam được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hàng năm không chỉ thu hút nhân dân các khu phố thuộc khối Cửa Nam mà còn thu hút cả nhân dân trong vùng cùng khách thập phương đến lễ đền, cầu cho gia đình thuận hòa, làm ăn phát tài, cầu phúc cầu lộc.
Đền Cửa Bắc – Lạng Sơn
Đền Cửa Bắc nằm ở phía bắc Thành cổ Lạng Sơn, nằm vuông góc giữa 2 trục đường Trần Hưng Đạo – Cửa Bắc thuộc phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII và được xếp hạng di tích Quốc gia năm 2013. Cùng với các đền: Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, đền ca Bắc có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn.
Đền Cửa Bắc – Lạng Sơn
Đền thờ Đức Thánh Trần (Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) và thờ Mẫu (Mẫu Liễu), Phật (Thiên Thủ Thiên Nhãn); đây chính là sự phối thờ: Tiền Thánh – Hậu Phật.
Kiến trúc của Đền hình chữ Nhị (=) gồm gian Đại Bái (Chính Điện) ở bên ngoài, gian Hậu Cung ở phía trong. Theo tư liệu “Xã chí Lạng Sơn”. trước đây Đền có nhiều hiện vật quý gồm: 1 tấm bia đá ghi công đức thời Khải Định (1924), 06 tượng thánh bằng gỗ sơn son thếp vàng, 2 nhang án, lỗ bộ, 1 bát nhang cổ bằng sứ, 1 bát nhang đỏ. Hiện nay, tại Đền vẫn còn lưu giữ tấm bia ghi công đức (năm 1924) và có thêm các tượng, đồ thờ tự, ngai (thờ bóng), điện thờ…
Sau bao biến cố thăng trầm của thời gian, Đền Cửa Bắc đã bị xuống cấp. Để bảo tồn và phát huy giá trị di tích, được sự chấp thuận của Bộ VHTT&DL, năm 2017 – 2018, Đền được tu bổ, tôn tạo bằng nguồn xã hội hóa. Công trình hoàn thành là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng cầu phúc, cầu lộc, cầu may mắn, cầu bình an của nhân dân và du khách gần xa, đồng thời tạo điểm nhấn cho địa phương trong việc khai thác tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh.
Đền Mẫu Đồng Đăng – Lạng Sơn
Đền Mẫu Đồng Đăng nằm ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, cách cửa khẩu Hữu Nghị khoảng 4km. Đền Mẫu Đồng Đăng là nơi thờ Phật và Mẫu Thượng ngàn mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc Lạng Sơn. Đây cũng là một trong những nơi thờ tự nổi tiếng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Mỗi dịp Xuân về, nơi đây trở thành điểm đến tâm linh linh thiêng của du khách trong hành trình đến với thị trấn vùng biên xứ Lạng.
Đền Mẫu Đồng Đăng – Lạng Sơn
Đền Mẫu Đồng Đăng trước đây nằm trong một mái đá sát chân núi (cách vị trí đền ngày nay khoảng hơn 300m về phía đông bắc), hiện tại ở vị trí này còn có một bia ma nhai, kích thước: 53cm x 80cm, cạnh đó có một nghiêm mực đá được chạm khắc vào tháng sáu năm Kỷ Tỵ, triều Gia Long thứ 8 (1809). Sau này, thấy nơi đây chật hẹp không mấy thuận tiện cho việc thờ cúng, nhân dân địa phương đã di chuyển nơi thờ tự đến vị trí hiện nay. Đây là nơi thờ tự tín ngưỡng thánh Mẫu và Phật theo kiểu “Tiền Thánh – Hậu Phật”.
Đền Mẫu Đồng Đăng là ngôi đền lớn có giá trị về kiến trúc, tín ngưỡng – tôn giáo và lịch sử; là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh thu hút đông đảo nhân dân trong tỉnh, du khách trong nước và quốc tế, nhất là dịp lễ hội được tổ chức vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm.
Đến với đền Mẫu Đồng Đăng, du khách có thể kết hợp tham quan cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và thoải mái mua sắm trong khu chợ sầm uất của thị trấn Đồng Đăng.
Đền Quan Giám sát – Lạng Sơn
Đền Quan Giám Sát nằm ở thôn Việt Thắng, xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng, cách thị trấn Hữu Lũng 14km về hướng đông nam.
Đền Quan Giám sát – Lạng Sơn
Đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX trên vị trí nền đất cao của thôn Việt Thắng. Kiến trúc Đền lúc đầu có kiểu kiến trúc chữ Nhất, làm bằng gỗ, mái lợp bằng cỏ gianh. Sau này Đền phát triển thêm và có kiến trúc kiểu chữ Nhị với diện tích nhỏ gồm hai gian (Tiền Tế và Hậu Cung), tường xây gạch chỉ, mái lợp ngói âm dương; gian Hậu Cung thờ bóng vị Quan Giám Sát, có ngai thờ và bài vị bằng đồng (ghi tên húy của Ngài).
Sau nhiều lần trùng tu, tôn tạo, hiện nay Đền có kiến trúc chữ Tam, gồm các gian: Tiền Tế, Đại Bái, Hậu Cung. Tại đền Quan Giám Sát còn lưu giữ được 4 bản sắc phong do các triều vua trước đây phong tặng, bản sớm nhất được phong tặng vào thời nhà Lê (thế kỷ XVIII), bản muộn nhất được phong tặng vào thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XX) cùng nhiều đồ thờ tự, đồ trang trí khác có giá trị như: Hoành phi, câu đối, chuông đồng cổ (6 chiếc), khánh đồng…
Đền Quan Giám Sát là một di tích có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật và là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của du khách thập phương và nhân dân trong vùng.
Đền Bắc Lệ – Lạng Sơn
Đền Bắc Lệ nằm ở huyện Hữu Lũng là một quần thể di tích nằm trên một quả đồi giữa khu Nam của Phố Bắc Lệ . Hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác thời gian ra đời của một ngôi đền, song căn cứ vào hai văn bia còn (1919 và 1933) đền Bắc Lệ từ đầu thế kỷ XX đến nay đã trải qua 5 lần tu sửa tôn tạo.
Đền Bắc Lệ – Lạng Sơn
Theo văn bia khắc năm Khải Định thứ 4 (1919) thì trước đó đền chỉ là một am thờ nhỏ, hay bị hỏa hoạn, sau đó nhân dân đã cung tiến xây dựng thành một ngôi nhà 3 gian gồm 3 cung: Đệ Nhất – Đệ Nhị – Đệ Tam (cung cấm) ngôi đền mang bóng dáng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Trung quốc. Trong đợt sửa chữa lần 2 (1933) và lần 3 (1940) ngôi nhà 3 gian cũ đuợc quay lại và xay thêm cung Đệ Tam ở phía sau. Một cổng Tam quan to cao được xây dựng ở phía ngoài Tam cấp lên đền. Sau đó do các điều kiện, nguyên nhân khác đền Bắc Lệ còn qua một số lần sửa chữa.
Tuy trải qua nhiều lần tu bổ, nhưng ngôi đền hiện nay vẫn giữ được dáng vẻ cổ truyền, diện mạo đền hiện nay ngoài đền chính còn có một số gian thờ khác, bên phía mặt tiền của đền là một gian nhà nhỏ khoảng 10m², thờ Chầu Bé Bắc Lệ, phái trước bên trái phía Đông Bắc của của mặt chính diện đền có một bàn thời Ngũ Hổ ngoài trời. Đền chính vẫn nằm trên vị trí cũ, đó là một dãy nhà 3 gian xây bằng gạch lợp ngói tây, cột gỗ, ba gian nhà này đồng thời là 3 cung, diện tích 126m².
Mặc dù đã bị thất lạc nhiều song đền vẫn giữ được một số di vật cổ và thêm các hiện vật mới được cung tiến. Hiện nay đền có 19 pho tượng lớn nhỏ chủ yếu bằng chất liệu gỗ, nhiều y môn sặc sỡ treo trên các lối đi có hai văn bia và nhiều hoành phi câu đối.
Đền Bắc Lệ – Lạng Sơn
Cũng giống như bất kỳ một đền thờ Mẫu nào đền Bắc Lệ thời Công Đồng, Tứ Phủ, thờ tất cả các vị Chư Linh ở bốn miền Vũ Trụ, thế nhưng ở đây đặc biệt coi trọng các vị thần linh gắn liền với địa phương như Mẫu Thượng Ngàn, Chầu Bé, Cô Bé… những vị thần cung cấp ban phát của cải vô biên nơi núi rừng cho con người, và trở thành biểu tượng của sự sống vĩnh hằng. Chầu Bé theo quan niệm của người dân ở đây, vốn là người có thật quê quán ở Bắc Lệ. Tại đây Chầu Bé có thể thay mặt Mẫu để thực hiện các ý đồ sáng tạo của các Mẫu.
Bên cạnh Trung tâm là Mẫu còn có các thần linh hóa thân của Mẫu như Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu Bà, Tứ Phủ Quan Hoàn, Cô, Cậu.. được thể hiện qua việc bài di tích. Lễ hội chính của đền Bắc Lệ được tổ chức vào ngày 20 tháng 9 âm lịch hàng năm. Việc tế lễ, rước sách tổ chức rất linh đình, thu hút một số lượng đông đảo người dân tham dự.
Đình Nông Lục – Lạng Sơn
Đình Nông Lục là ngôi đình cổ được chứng nhận di lịch sử quốc gia tại Bắc Sơn. Nơi đây được xem là minh chứng cho trang lịch sử vàng của dân tộc. Và đặc biệt hơn cả là sự kết hợp độc đáo giữa thiết kế truyền thống của đồng bằng Bắc Bộ và nhà sàn dân tộc Tày.
Đình Nông Lục – Lạng Sơn
Tại đây, vào tối ngày 25 tháng 9 năm 1940, các đảng viên cộng sản trung kiên vừa thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp trở về đã họp bàn với các đồng chí đảng viên thuộc chi bộ Hưng Vũ về phương án khởi nghĩa, cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp ở đồn Mỏ Nhài – Châu lị Bắc Sơn. Tại cuộc họp đã ra Nghị quyết thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa và quyết định thời gian khởi nghĩa là 20h ngày 27/9/1940.
Đình Nông Lục là một di tích kiến trúc nghệ thuật được xây dựng từ đầu thế kỷ XX với kiến trúc theo kiểu chữ nhất, diện tích khoảng 180m2. Kiến trúc Đình là sự kết hợp giữa kiểu đình truyền thống đồng bằng Bắc Bộ với kiến trúc nhà sàn của người Tày Lạng Sơn.
Đến với di tích đình Nông Lục, du khách có thể tìm hiểu về giá trị lịch sử truyền thống cách mạng, giá trị văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và kết hợp tham quan các điểm di tích tiêu biểu khác trong cụm di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn.
Đền Cô bé Suối Ngang – Lạng Sơn
Đền Cô Bé Suối Ngang còn gọi là Đền Suối Ngang ở xã Phố Vị, Hữu Lũng, Lạng Sơn. Đền không chỉ là nơi giao lưu văn hóa mà còn là nơi tổ chức các buổi hát hầu đồng. Cô Bé Suối Ngang cũng như các cô bé khác trên ngàn đều là Cô bé Thượng Ngàn trong Tứ Phủ Thánh Cô và đều hầu Mẫu Thượng Ngàn. Các cô bé Thượng Ngàn đều là các bộ nàng trong Cung Sơn Trang. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Những thanh đồng sát căn Cô Bé Thượng Ngàn thường đến đây để hầu cô.
Đền Cô bé Suối Ngang – Lạng Sơn
Muốn tới đền, từ lúc rẽ qua ngã tư Mẹt vào đường; các bạn cứ hỏi đường đến Đền là người dân sẽ chỉ cho các bạn ngay; đường thẳng nên rất dễ tìm. Ô tô có thể vào thẳng cổng đền. Đền thờ Cô Bé là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang; hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ.
Khách thập phương từ xa tới đều có thể ghé thăm Đền không chỉ tham quan ngắm cảnh mà còn có thể cầu phúc, cầu lộc. Nếu đến vào ngày mùng 1 hay 15, các bạn còn có thể xem các cô, các cậu múa hầu đồng, may mắn có thể được nhận chút lộc, đó là một nét đẹp văn hóa rất riêng đấy. Ngày 20/9 là ngày tiệc của Cô Bé Suối Ngang.
Điểm du lịch Đoàn Thành – Lạng Sơn
Di tích Thành cổ Lạng Sơn (hay còn gọi là Đoàn thành) nằm ở địa phận phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn.
Điểm du lịch Đoàn Thành – Lạng Sơn
Thành có hình chữ nhật với chu vi hơn 1km chạy từ phía Nam hang Dê lên trường Cao Đẳng Sư phạm Lạng Sơn ra quốc lộ 1A cũ và ngược lên phía cầu Kỳ Cùng. Đoàn Thành Lạng Sơn được xây dựng từ lâu đời, là một trong những trấn án ngữ cửa ngõ phía bắc. Xưa kia, Thành được xây dựng với quy mô rất lớn, bên trong có nhiều binh lính, xung quanh là chợ và phố xá đông đúc, hoạt động buôn bán giao lưu với các thương nhân Trung Quốc diễn ra khá tấp nập. Thời Pháp có xây thêm nhiều trại lính, nhiều dinh thự trong thành.
Thành cổ Lạng Sơn là một di tích kiến trúc quân sự, có vị trí rất quan trọng trong việc trấn giữ phòng thủ quân sự nơi cửa ngõ của đất nước. Đoàn Thành được xây dựng đã trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Lạng Sơn thời phong kiến.
Đoàn thành Lạng Sơn theo như miêu tả của các sách xưa thì có 4 cửa ở 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, xung quanh thành có 19 điểm canh. Trải qua thời gian, nay Thành đã không còn nguyên vẹn, thực tế chỉ còn lại đoạn tường thành ở phía nam núi Hang Dê chạy ra Tổ Sơn và bức tường bên trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn chạy sang phía quốc lộ 1A cũ. Trong số 4 cửa thành xưa, nay chỉ còn 2 cửa (cửa Nam và cửa Tây), Vọng Lâu trên cửa Thành cũng đã bị đổ nát. Vết tích cho thấy, cổng Thành được xây dựng khá chắc chắn: Móng được xây bằng đá xanh, cổng xây vòm cuốn, chiều cao đến đỉnh là 5m, rộng 4m. Hiện nay cửa Tây của tòa thành đã bị xây bít lại, chỉ còn cửa phía Nam, có đường Nguyễn Thái Học chạy qua. Ở 4 cửa quay ra 4 hướng của Đoàn Thành là 4 ngôi đền: Cửa Đông, Cửa tây, Cửa Nam và Cửa Bắc, nơi thờ những vị thần trấn giữ, bảo vệ cho Thành.
Đến tham quan di tích Thành cổ Lạng Sơn, du khách sẽ được khám phá những nét độc đáo của kiến trúc Thành cổ xưa, tham quan và hành lễ tại các ngôi đền linh thiêng nằm ở xung quanh Thành.
Bảo tàng tỉnh – Lạng Sơn
Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn tọa lạc trên một khu đất rộng gần 3.000 m2, nằm ở số 2 đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đây là một tổng thể kiến trúc bao gồm nhà trưng bày, kho hiện vật và khu nhà làm việc của Bảo tàng tỉnh được xây dựng và khánh thành năm 2003 nhân dịp kỷ niệm 113 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/2003) và 10 năm thành lập Bảo tàng Tổng hợp tỉnh (nay là Bảo tàng tỉnh).
Bảo tàng tỉnh – Lạng Sơn
Nhà trưng bày Bảo tàng là kiến trúc hiện đại mô phỏng một ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày Lạng Sơn. Nơi đây hiện đang trưng bày hơn một ngàn tài liệu, hiện vật về lịch sử tự nhiên và xã hội của Lạng Sơn qua các thời kỳ lịch sử. Thông qua các tổ hợp trưng bày chuyên đề, hình ảnh, tài liệu hiện vật chọn lọc – hệ thống trưng bày giới thiệu với người xem những nét đặc trưng cơ bản về địa lý tự nhiên, thành phần dân tộc và những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống trưng bày cũng tập trung giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của lịch sử Lạng Sơn từ thời kỳ tiền – sơ sử, qua thời phong kiến đến thời kỳ cận, hiện đại. Qua đó giúp người xem hiểu về nguồn gốc dân tộc, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc của nhân dân Lạng Sơn qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh những sự kiện lịch sử tiêu biểu, những chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc (Chiến thắng Chi Lăng, đường số 4, khởi nghĩa Bắc Sơn…), những thành tựu nổi bật của quân dân Lạng Sơn trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Trong khuôn viên của Bảo tàng tỉnh trưng bày những hiện vật thể khối lớn bổ sung hoàn thiện hơn cho nội dung trưng bày chính như: Hóa thạch cổ, súng thần công, bia đá, mảnh xác máy bay Mỹ… Không gian ngoại thất của Bảo tàng được tôn lên bởi hệ thống sinh vật cảnh phong phú, các tác phẩm mỹ thuật phụ trợ như phù điêu, tượng…
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn – Lạng Sơn
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn nằm cạnh đường quốc lộ 1B, thuộc thôn Long Hưng, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn, cách trung tâm thị trấn Bắc Sơn khoảng 2,5 km về phía bắc, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 80 km.
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn – Lạng Sơn
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn được xây dựng năm từ 1985 với dáng dấp mô phỏng kiến trúc một ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày, giống như một không gian văn hóa tái hiện một cách sinh động toàn bộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nội dung trưng bày theo 3 chủ đề: Bắc Sơn thời tiền sử – Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn – Bắc Sơn phát huy truyền thống cách mạng.
Đây là một bảo tàng lưu niệm sự kiện lịch sử bằng các tài liệu hiện vật, hình ảnh, giúp người xem hiểu một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.
Bảo tàng Khởi nghĩa Bắc Sơn đã trở thành một thiết chế văn hóa quan trọng của địa phương, là nơi nghiên cứu, học tập và giáo dục truyền thống cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ – Lạng Sơn
Khu di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ nằm tại xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng, cách thành phố Lạng Sơn 26 km về phía bắc.
Di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ – Lạng Sơn
Khu di tích được hoàn thành với những hạng mục cảnh quan văn hóa, di tích lịch sử cách mạng gắn với cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí Hoàng Văn Thụ, được khánh thành ngày 25/10/2009 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Hoàng Văn Thụ (04/11/1909 – 04/11/2009).
Khu di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ tại xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng cùng với di tích Nhà số 8 phố Chính Cai và tượng đài đồng chí Hoàng Văn Thụ ở thành phố Lạng Sơn là những di sản văn hoá, điểm đến văn hoá phục vụ cho nhân dân địa phương và du khách tham quan, nghiên cứu, là nơi giáo dục truyền thống, nâng cao niềm tự hào dân tộc, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương.
Khu di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri – Lạng Sơn
Đồng chí Lương Văn Tri sinh ngày 17/8/1910 trong một gia đình người Tày ở Bản Hẻo, xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay là xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan).
Khu di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri – Lạng Sơn
Thuở nhỏ, đồng chí rất thông minh, học giỏi. Sinh ra và lớn lên dưới chế độ thực dân phong kiến hà khắc, nhân dân vô cùng cực khổ, đồng chí đã sớm có tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ.
Đồng chí Lương Văn Tri là một nhà hoạt động cách mạng và là người có đóng góp lớn trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Đồng chí từng cùng đồng chí Hoàng Văn Thụ lập ra một nhóm thanh niên yêu nước tại thị xã Lạng Sơn vào năm 1926. Năm 1928, được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Tháng 12 năm 1929, được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Sau khi tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) năm 1933, Lương Văn Tri được phân công về Việt Nam xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Bằng – Lạng Sơn. Năm 1939, đồng chí được bầu làm Xứ Ủy viên Xứ uỷ Bắc kỳ, phụ trách vấn đề quân sự. Năm 1940, đồng chí giữ chức Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách liên tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn… Sau hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11/1940), Lương Văn Tri được cử làm chỉ huy trưởng đội du kích Bắc Sơn và khu căn cứ Cứu quốc quân Bắc Sơn – Võ Nhai. Tháng 8 năm 1941, trên đường hành quân lên Cao Bằng, đồng chí Lương Văn Tri bị thực dân Pháp bắt tại Ngân Sơn (Bắc Kạn) và đã hy sinh sau đó tại nhà tù Cao Bằng vào ngày 29/9/1941.
Đồng chí Lương Văn Tri đã nêu tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần tô điểm cho trang sử vẻ vang của Đảng ta. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí mãi mãi là tấm gương sáng ngời để lớp lớp con cháu chúng ta học tập và noi theo.
Khu di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri – Lạng Sơn
Hiện nay, ngôi nhà của đồng chí đã từng sinh ra và lớn lên ở thôn Bản Hẻo, xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan được được tu bổ, tôn tạo, phục chế nguyên gốc, trở thành di tích Nhà lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri (17/8/1910 – 17/8/2010), đảng và nhà nước ta đã xây dựng công trình Tượng đài đồng chí Lương Văn Tri tại thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan. Đây là những hoạt động thiết thực để tưởng nhớ và tri ân những cống hiến to lớn của đồng chí Lương Văn Tri trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Di tích lưu niệm và tượng đài đồng chí Lương Văn Tri tại huyện Văn Quan là những địa chỉ văn hóa, thường xuyên thu hút các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ đến tìm hiểu và học tập truyền thống cách mạng của quê hương đất nước.
Nhà trưng bày chiến tích Chi Lăng – Lạng Sơn
Nhà trưng bày chiến tích Chi Lăng được xây dựng năm 2002, cạnh đường quốc lộ 1A mới Lạng Sơn – Hà Nội, dưới chân núi Phượng Hoàng, thuộc thôn Quán Thanh, xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Cách thành phố Lạng Sơn khoảng 40 km về phía Nam.
Nhà trưng bày chiến tích Chi Lăng – Lạng Sơn
Nội dung trưng bày tại đây gồm 3 chủ đề chính: Chi Lăng lịch sử đất nước và con người – Chi Lăng lich sử – Chi Lăng phát huy truyền thống.
Hệ thống trưng bày đã tái hiện lại lịch sử những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của cha ông ta diễn ra trên mảnh đất Chi Lăng anh hùng mà đỉnh cao là chiến trận Chi Lăng – Xương Giang (năm 1427), chiến thắng quân Minh xâm lược. Thông qua hệ thống tài liệu, hình ảnh, hiện vật phong phú sống động cùng hệ thống khuôn viên tượng đài hoành tráng trong quần thể di tích lịch sử Chi Lăng sẽ đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu, tham quan, học tập của các tầng lớp nhân dân.
Khuôn viên tượng đài và Nhà trưng bày chiến tích Chi Lăng là một công trình văn hóa đẹp, có ý nghĩa, ngày càng thu hút đông đảo du khách gần xa.
Nhà bia Thủy Môn Đình – Lạng Sơn
Nhà bia Thủy Môn Đình là một di tích có nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Hiện di tích nằm ở vị trí đầu đường vào thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Nếu tính theo chiều từ thành phố Lạng Sơn lên thì di tích nằm ở bên phía tay phải, cách mặt đường 1A chưa đầy 50m. Bia Thủy Môn Đình là một tấm bia cổ, có niên hiệu Cảnh Trị thứ 18 (1670) ghi công của Hữu Đô Đốc Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc, có công trạng, sự nghiệp gắn liền với vùng đất, quê hương Xứ Lạng.
Nhà bia Thủy Môn Đình – Lạng Sơn
Bia được tìm thấy khá dày dặn, có bệ, cao hơn đầu người. Khi được phát hiện, bia nằm giấu kín trong đám bụi cây. Mặt lưng bia có ba chữ Thủy Môn Đình rất to. Thủy Môn Đình do quan Đô Tổng binh, Bắc quân Đô đốc phủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị bách niên dưới thời Lê Trịnh. Mở đầu bia viết đại ý “ta nhờ tổ tông tích thiện, nên từ lúc còn trẻ đã được theo vua giết giặc lập công, được phong chức giữ nơi bờ cõi, cửa ngõ của sự bang giao, nơi hai nước có sứ giả đi lại và văn thư giao dịch. Nhờ gặp thời Hoàng Lê thịnh trị, vạn đẹp của Chúa, thu phục được “bát man”, được giao trọng trách trông giữ miền quan ải, trách nhiệm nặng nề, vì thế lập bia để con cháu trông gương mà bắt chước, báo đền ơn vua, lộc nước”.
Ở giữa bia có một bài Minh, tức là bài tóm tắt chủ ý của bia dưới dạng câu ngắn có vần: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”. Có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Vách đá giữa trời đất, quận sâu nơi biên giới. Ấp thiêng xứ Đồng Đăng.
Sự có mặt của hai chữ Việt Nam trong tấm bia biên giới có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì vị trí tấm bia này chỉ cách ải Nam Quan (nay là cửa quan Hữu Nghị) có 2 km. Nó lại dựng lên bởi “Bắc quân Đô đốc xứ Lạng Sơn” nên tấm bia có ý nghĩa hành chính rõ rệt. Như vậy từ hơn 3 thế kỷ trước đây, tên gọi Việt Nam đã chính thức nằm trên tấm bia hiên ngang nơi quan ải.
Di tích Khuổi Nọi – Lạng Sơn
Từ quốc lộ 1B Lạng Sơn – Thái Nguyên, theo đường 241 Ngả Hai đi Nhất Hòa chừng 2 km, có một lối rẽ vào thôn Vũ Lâm, xã Vũ Lễ. Ngược dòng Khuổi Nọi về hướng thượng nguồn khoảng 2 km nữa là đến trung tâm của khu di tích Khuổi Nọi – địa bàn hoạt động quan trọng của du kích Bắc Sơn, nơi đã diễn ra sự kiện thành lập đội Cứu Quốc quân I, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Di tích Khuổi Nọi – Lạng Sơn
Khuổi Nọi là một trong 12 điểm của khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn đã được Bộ VHTTDL xếp hạng di tích quốc gia năm 1992, Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích đặc biệt Quốc gia năm 2016. Di tích Khuổi Nọi ngày nay là một khu đất rộng tương đối bằng phẳng giữa rừng Tam Tấu, xung quanh bao bọc bởi núi cao và ngút ngàn rừng cây. Đây là căn cứ hoạt động bí mật của du kích Bắc Sơn. Tuy ở gần đường quốc lộ nhưng lại rất kín đáo, khi có sự cố có thể rút lui an toàn theo nhiều hướng khác nhau: Theo hướng Nam qua rừng vượt sang xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên; theo hướng Đông đến xã Tân Thành, Tân Hương, huyện Bắc Sơn.
Nằm trong khu rừng Tam Tấu, có diện tích 33.151m2, được bao bọc bởi các dãy núi cao với các tầng thực vật đa dạng, phong phú. Đây là địa bàn hoạt động bí mật của Đội Cứu Quốc quân, khi có biến cố có thể rút lui an toàn theo nhiều hướng khác nhau: hướng Nam thì vượt sang xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, hướng Đông băng qua rừng đến xã Tân Thành, Tân Hương, huyện Bắc Sơn… Hiện nay, khu di tích chỉ còn lại các địa điểm dựng lán trại và sân luyện tập của Cứu Quốc quân trước đây. Năm 2014, di tích được đầu tư xây dựng một số hạng mục, gồm: 01 chốt canh gác, 02 lán trại (01 lán chỉ huy và 01 lán sinh hoạt đội viên), 01 cụm biểu tượng tôn vinh và khu khuôn viên, lễ đài.
Xuất phát từ ý nghĩa lịch sử đó, trong những năm qua di tích Khuổi Nọi đã luôn được quan tâm gìn giữ, trùng tu tôn tạo tương xứng với tầm vóc của một di tích Quốc gia. Như mọi điểm trong khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn, Khuổi Nọi đã được quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, có đủ hệ thống bia biển chỉ dẫn, giới thiệu di tích.
Năm 2014, từ chương trình mục tiêu Quốc gia, tỉnh đã phục dựng di tích trọng điểm này một cách khá quy mô theo hướng nguyên gốc di tích. Tại đó, đã xây dựng một số hạng mục công trình lưu niệm ghi dấu sự kiện ra đời và hoạt động của Đội Cứu quốc quân. Trong đó có một chốt canh gác thiết kế theo kiểu chòi gác án ngữ ngay trên con đường độc đạo dẫn vào khu trung tâm, cách đó khoảng 500m. Từ đây các chiến sỹ Cứu quốc quân có thể phòng thủ, kiểm soát được toàn bộ con đường dẫn vào bên trong căn cứ. Bên cạnh đó còn có khu lán trại bao gồm một lán của Ban chỉ huy đội Cứu quốc quân (rộng khoảng 60 m2), một lán dành cho các đội viên (103 m2).
Đây là nơi đội Cứu quốc quân I đã sinh hoạt, hội họp và tổ chức các lớp huấn luyện quân sự. Kết cấu kiến trúc bằng bê tông mô phỏng kiểu lán trại kiểu truyền thống: mái lá, vách thưng bằng phên nứa, ván sàn bằng tre mai… Khu lán trại ẩn giữa rừng cây, tựa lưng vào núi, nhìn thẳng xuống dòng Khuổi Nọi trong xanh.
Với những giá trị lịch sử đặc biệt, lại là nơi có địa thế, cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ, được đầu tư trang bị cơ sở hạ tầng đồng bộ, Khuổi Nọi rất thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, tổ chức các tour du lịch về nguồn. Hiện Khuổi Nọi là một trong 39 điểm du lịch cấp tỉnh của Lạng Sơn, di tích đã và đang thu hút các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đến tham quan, sinh hoạt ngoại khóa. Đến nơi đây, mỗi chúng ta càng thêm cảm phục, tự hào về những người chiến sỹ du kích trung dũng kiên cường đã làm nên cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn hào hùng đi vào lịch sử vẻ vang của quê hương, đất nước.
Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị – Lạng Sơn
Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị là một cửa khẩu quốc tế của Việt Nam nằm trên biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Đây là điểm nối tuyến đường cao tốc Nam Ninh – Hà Nội, là cầu nối quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế giữa 2 nước Việt Nam và Trung Quốc. Tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, phía Việt Nam đã cắm cột mốc 1116 và phía Trung Quốc cắm cột mốc 1117, đây đều là các cột mốc cỡ lớn, có gắn Quốc huy của hai nước. Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị nằm trên Quốc lộ 1A, cách thành phố Lạng Sơn 17 km về phía Bắc.
Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị – Lạng Sơn
Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị là một điểm quan trọng trong tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng theo thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam – Trung Quốc về chủ trương xây dựng “hai hành lang, một vành đai kinh tế”, vị trí quan trọng của tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh – Singapore, đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa Trung Quốc, Việt Nam với các nước ASEAN và ngược lại.
Hàng năm, qua lại cặp Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị-Hữu Nghị Quan có trên 30 ngàn lượt phương tiện hàng hóa (chưa bao gồm các loại phương tiện vận tải khác thực hiện giao, nhận hàng hóa tại khu vực cửa khẩu) và có từ 40 đến 50 ngàn lượt phương tiện chuyển tải hành khách tại khu vực cửa khẩu. Trung bình mỗi năm Hải quan Lạng Sơn làm thủ tục cho khoảng 100.000 bộ tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu.
Chợ cửa khẩu Tân Thanh – Lạng Sơn
Khu chợ Tân Thanh mới được đưa vào sử dụng đầu năm 2000. So với các cửa khẩu khác, hàng hóa ở đây được đưa ra gần đường biên hơn, người dân ở các địa phương lân cận, dù là người Việt Nam hay người Trung Quốc đều được tự do đi lại buôn bán.
Chợ cửa khẩu Tân Thanh – Lạng Sơn
Tại khu cửa khẩu Tân Thanh có nhiều trung tâm mua bán. Ngoài khu trung tâm mua sắm 2 tầng, còn có trung tâm thương mại Hồng Kông, khu Thế giới Phụ nữ, chợ cửa khẩu và khu chợ trời nằm sát đường biên giới Việt – Trung. Do mang tính chất trao đổi hàng hóa giữa hai bên của vùng biên, chợ Tân Thanh có cả hàng Việt Nam và hàng Trung Quốc, các mặt hàng rất phong phú và đa dạng.
Với khoảng cách không quá xa thành phố Lạng Sơn, cùng với những sản phẩm hàng hóa đa dạng, chợ Tân Thanh luôn là điểm đến lý tưởng cho du khách tham quan, mua sắm khi đến với Lạng Sơn.
Đồn Mỏ Nhài – Lạng Sơn
Từ đình Nông Lục du khách đi hơn 1 km là đến di tích đồn Mỏ Nhài. Đồn nằm trên một ngọn đồi cao, có vị trí quân sự chiến lược án ngữ con đường huyết mạch đi về 3 hướng chính là Bình Gia, Vũ Lăng, Bằng Mạc.
Đồn Mỏ Nhài – Lạng Sơn
Khi chiếm châu Bắc Sơn thực dân Pháp đã tập trung xây dựng đồn Mỏ Nhài thành một căn cứ quân sự mạnh hòng kiểm soát và sẵn sàng đè bẹp lực lượng du kích Bắc Sơn hoạt động quanh vùng. Tối ngày 27/9/1940 khoảng 600 quân dân du kích Bắc Sơn chia làm 3 hướng đồng loạt tấn công đồn Mỏ Nhài bằng các loại vũ khí thô sơ hoặc tự chế hoặc thu được của địch khiến chúng phải rút chạy, ta thu giữ nhiều súng ống, đạn dược, đốt bỏ tài liệu và ấn tín.
Chiến thắng đồn Mỏ Nhài là dấu ấn quan trọng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, được đánh giá “là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng các lực lượng dân tộc Đông Dương”. Chiến thắng đã chứng minh tính đúng đắn của việc chuyển từ hình thức đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang của Đảng ta, cổ vũ mạnh mẽ các cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng sau này
Trường Vũ Lăng – Lạng Sơn
Cách thành phố Lạng Sơn khoảng 95km theo tuyến đường quốc lộ 1B, di tích lịch sử Trường Vũ Lăng nằm ở xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn, là một trong 12 điểm di tích thuộc Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1992.
Trường Vũ Lăng – Lạng Sơn
Đây là nơi quân địch tập trung lực lượng, chuẩn bị tấn công vào khu căn cứ du kích của ta. Tuy nhiên, vào sáng ngày 25/10/1940, các chiến sỹ du kích Bắc Sơn đã chủ động tiến đánh quân Pháp tại Trường Vũ Lăng và giành thắng lợi. Ngày 28/10/1940, quân ta đã tổ chức cuộc mít tinh thị uy tại đây nhằm nâng cao quyết tâm chiến đấu của chiến sỹ và nhân dân ta, đồng thời uy hiếp tinh thần quân địch.
Địa điểm di tích Trường Vũ Lăng hiện nay đã được trùng tu, tôn tạo và thực hiện trưng bày tài liệu, hiện vật. Đây là một điểm di tích thu hút đông đảo sự quan tâm của nhiều du khách, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Đến với Bắc Sơn, ngoài việc tham quan các di tích, tìm hiểu những giá trị lịch sử truyền thống cách mạng, du khách còn rất nhiều cơ hội tìm hiểu đời sống của người dân địa phương, khám phá nét đẹp văn hóa đặc trưng và chứng kiến cảnh sắc đổi thay trên mảnh đất Bắc Sơn anh hùng.
Hồ Pác Mỏ – Lạng Sơn
Từ trung tâm thị trấn huyện Bắc Sơn theo đường liên xã khoảng 2 km các bạn sẽ đến hồ Pác Mỏ thuộc xã Hữu Vĩnh. Đây là di tích danh thắng được xếp hạng cấp tỉnh năm 2002. Không chỉ là một hồ thủy lợi đơn thuần cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt, hồ Pác Mỏ có cảnh quan đẹp tự nhiên, nguồn nước trong xanh không bao giờ vơi cạn, mặt hồ yên bình soi bóng những mái nhà sàn thấp thoáng bên tán cây cổ thụ dưới chân núi.
Hồ Pác Mỏ – Lạng Sơn
Ngay bên hồ là giếng Bó Loóng, truyền thuyết kể rằng ngày xưa vùng này vốn khô cạn, vào một ngày mưa to gió lớn có con trâu thần trắng đã húc vào vách đá bên hồ, chui vào lòng núi mà tạo ra khe giếng này. Từ đó đến nay khe giếng Bó Loóng nước chảy suốt quanh năm cung cấp nước cho vùng hồ mênh mông. Điều kỳ lạ là trước mỗi ngày mưa to nước chảy ra từ giếng sẽ đổi màu trắng đục như nước vo gạo, nguồn nước khe đặc biệt lạnh không biết xuất xứ chảy từ đâu, lạnh đến nỗi giữa trưa hè một người khỏe mạnh cũng không thể ngâm mình trong nước đến 5 phút.
Cách hồ Pác Mỏ khoảng 200 mét là hang Thắm Hoài. Hang có 2 tầng, nhiều nhũ đá hình thù kỳ lạ rất đẹp mắt, có những cột đá vôi cao hàng chục mét sừng sững cạnh lối đi. Hang nằm lưng chừng núi, dài hơn 700 mét, trần hang cao rộng có nhiều thạch nhũ muôn màu sắc. Sau năm 1964 Đài Phát thanh Khu tự trị Việt Bắc đã sơ tán từ Đồng Hỷ (Thái Nguyên) về hang Thắm Hoài hoạt động để tránh các cuộc ném bom phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hiện nay tại tầng 1 và phía ngoài hang còn dấu tích khu xưởng máy và khu nhà ở của cán bộ nhân viên nhà Đài khá nguyên vẹn.
Từ hồ Pác Mỏ, các bạn tiếp tục theo đường liên xã khoảng 7 km đến xã Tân Lập khám phá hang Lân Pán và hang Rù Hon. Hang Lân Pán thuộc một trong 12 điểm thuộc An toàn khu Bắc Sơn đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Tại đây ngày 23/6/1941 đoàn cán bộ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Trần Đăng Ninh…dự Hội nghị Trung ương 8 từ Pác Bó (Cao Bằng) trở về đã ở lại hang trong một thời gian để chỉ đạo phong trào cách mạng Bắc Sơn, truyền đạt nội dung Nghị quyết Trung ương 8 về đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống phát xít Nhật – Pháp, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đến trung tâm xã Tân Lập, các bạn tạm dừng phương tiện, chuẩn bị đồ nghề leo núi để thám hiểm và chinh phục hang Rù Hon. Mặc dù địa hình hang Rù Hon rất hiểm trở nhưng bên trong lòng hang cảnh quan vô cùng hùng vĩ, có nhiều vòm cao hơn 150 mét, ăn sâu dường như bất tận trong lòng núi đá. Hệ thống thạch nhũ nguyên sơ mang hình những thác đá, trống đá, đầu rồng, tiên ông, ao tiên, cung nữ, thạch quái…muôn hình vạn trạng với đủ cung bậc mầu sắc, hấp dẫn sự trải nghiệm và khám phá.
Hồ Tam Hoa – Lạng Sơn
Hồ Tam Hoa là một địa điểm du lịch tại Huyện Bắc Sơn (Tỉnh Lạng Sơn thuộc vùng Đông Bắc Bộ).
Hồ Tam Hoa – Lạng Sơn
Nếu muốn, các bạn có thể sẽ được trải nghiệm không gian mênh mông rộng lớn của các hồ nước ngọt trong vùng như hồ Vũ Lăng, hồ Tam Hoa, cùng trải nghiệm bơi bè mảng, câu cá giải trí và thưởng thức các món ẩm thực đặc sắc. Nếu quý khách đến Bắc Sơn vào mùa quýt chín (tháng 10, 11 âm lịch) có thể ghé thăm các vườn quýt đặc sản mọc sai trĩu cành trong các lân, lũng, thoải mái lựa chọn và mua về làm quà.
Thác Đăng Mò – Lạng Sơn
Thác Đăng Mò là một điểm du lịch ở Lạng Sơn thích hợp cho hoạt động dã ngoại cuối tuần của các nhóm bạn trẻ, gia đình, công ty. Con thác đẹp này nằm cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 90 km, tọa lạc tại cây số 11, Quốc lộ 279, huyện Bình Gia.
Thác Đăng Mò – Lạng Sơn
Sở hữu vẻ đẹp hoang sơ và huyền bí nên Thác Đăng Mò trở thành điểm đến hấp dẫn các du khách trẻ. Có thời gian, bạn hãy ghé đây ngắm cảnh, cắm trại và chụp vài bức ảnh check in chuẩn phong cách rừng núi.
Thác Đăng Mò được hình thành từ sự kết hợp của 2 dòng suối ở phía thượng nguồn. Tổng chiều dài con thác lên đến hàng trăm mét và trải qua 3 tầng đá. Dọc theo chiều dài con thác, đá tảng chất chồng, rêu xanh phủ kín, tạo nên nét hoang sơ kỳ vĩ cho bức tranh thiên nhiên nơi đây.
Ngọn thác ngày ngày len lỏi giữa núi rừng Lạng Sơn bạt ngàn, hùng vĩ. Vào mùa nắng, tốc độ chảy của nước chậm và nhẹ. Du khách đến đây có thể ngắm cảnh, chụp ảnh hoặc đắm mình dưới làn nước trong xanh, mát rượi.
Vì kết cấu địa hình xung quanh thác khá hiểm trở nên chỉ có vài điểm giữ xe nhỏ của người dân dựng lên. Muốn đến khám phá con thác đẹp này, bạn nên đi buổi sáng hoặc tranh thủ về trước khi trời tối.
Nếu muốn cắm trại ở xung quanh thác, bạn hãy chuẩn bị sẵn lều trại, thức ăn và nước uống. Ngoài trải nghiệm tắm thác, bạn còn có thể mang theo cần câu để câu cá, tận hưởng một ngày khám phá Lạng Sơn giữa không gian thật xanh mát và bình yên.
Làng văn hóa du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn – Lạng Sơn
Làng Văn hóa du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn thuộc xã Quỳnh Sơn – huyện Bắc Sơn, cách Trung tâm thành phố Lạng Sơn 80km về phía tây nam theo quốc lộ 1B.
Làng văn hóa du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn – Lạng Sơn
Xã Quỳnh Sơn nổi tiếng có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có dãy núi đá vôi với nhiều hang động, có những cánh đồng bằng phẳng, bên cạnh dòng suối trong xanh uốn lượn. Hệ thống di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của xã có đình Quỳnh Sơn – một ngôi đình có lịch sử lâu đời thờ Quý Minh Đại Vương, người đã có công đánh đuổi giặc, giữ gìn sự bình yên cho dân chúng vùng biên ải; Cầu Rá Riềng là nơi quân và dân Bắc Sơn tổ chức phục kích đánh Pháp thu được nhiều quân trang, quân dụng, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ngày 27/9/1940. Các điểm du lịch khác như: Giếng tiên, hệ thống các hang động caster, xưởng làm ngói âm dương thôn Tân Hương, trạm vi ba (nơi có thể ngắm toàn cảnh xã Quỳnh Sơn)… đều là điểm du lịch hấp dẫn du khách tới tham quan, tìm hiểu, khám phá.
Cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây được diễn ra dưới những mái nhà sàn với kiến trúc truyền thống của dân tộc Tày Bắc Sơn được phân bố gần nhau mang tính chất cộng đồng rõ nét. Du khách đến đây sẽ được trải nghiệm cùng ăn uống, nghỉ ngơi và sinh hoạt trong không gian nhà sàn truyền thống, trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân. Quỳnh Sơn có những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là văn hoá đặc sắc của người Tày. Hàng năm vào ngày 12 và 13 tháng Giêng có lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), lễ hội được tổ chức với những nghi thức lễ truyền thống cầu mong mùa màng tốt tươi và các hoạt động vui chơi như: ném còn, chơi cờ Tiên, đánh đu… Các làn điệu hát Ví, hát Then, múa Tán Đàn cũng là nét văn hoá tiêu biểu trong đời sống của người dân. Ngoài ra, khi đến Quỳnh Sơn du khách còn được thưởng thức văn hoá ẩm thực với những món ăn truyền thống đặc trưng của dân tộc như: Bánh chưng đen, xôi cẩm, lạp xường, thịt tái (ướp đỏ)…
Ngoài việc tận hưởng không gian nghỉ dưỡng lý tưởng, đến đây du khách còn có thể kết hợp tham quan những điểm di tích trong cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn nổi tiếng như đình Nông Lục, đồn Mỏ Nhài, bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn…
Khám phá du lịch cộng đồng ở Quỳnh Sơn là dịp để du khách thưởng ngoạn, khám phá những điểm du lịch hấp dẫn, kết hợp tìm hiểu và trải nghiệm các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.
Suối Mỏ Mắm – Hang Keng Tao – Lạng Sơn
Ở Lạng Sơn, ngoài đồi núi hùng vĩ, du khách còn có thể dành thời gian khám phá những con suối đẹp, tiêu biểu là suối Mỏ Mắm. Con suối này nằm cách trung tâm thị trấn Bắc Sơn khoảng 24 km, là điểm du lịch ở Lạng Sơn mà du khách không thể bỏ qua. Nơi đây đã được quy hoạch là một khu du lịch với nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn.
Suối Mỏ Mắm – Hang Keng Tao – Lạng Sơn
Dù con suối là điểm nhấn quan trọng nhất ở đây nhưng khi đặt chân đến khu du lịch, bạn sẽ nhận ra nơi này có nhiều góc nhỏ khác cũng rất xinh xắn. Dọc đường vào bên trong con suối là những vườn hoa nhỏ nhiều màu sắc. Bên trên còn có trang trí thêm chong chóng giấy bay bay trong gió. Nơi đây thực sự là chốn dã ngoại dịp cuối tuần cho những bạn trẻ không biết chơi gì ở Lạng Sơn.
Để giữ trọn vẻ hoang sơ tự nhiên của suối Mỏ Mắm, ban quản lý khu du lịch chỉ dựng một chiếc cầu nhỏ bắc ngang qua suối cho du khách đi lại chụp ảnh. Đứng trên cầu, bạn có thể nhìn thấy dòng suối trong xanh, róc rách chảy len lỏi qua những phiến đá. Suối đổ dài từ trên cao xuống, dòng chảy chậm và tiếng nước trong trẻo, bình yên.
Khi đã ngắm cảnh, chụp ảnh tỏa thích với con suối này, bạn có thể nghỉ ngơi ở những chòi lá dựng bên bờ suối. Đặc biệt, đã đến đây rồi, bạn không thể bỏ qua cơ hội thưởng thức các món ngon núi rừng như thịt nướng, gà quay hay gà om gừng nghệ. Ngoài ra ở khu du lịch suối Mỏ Mắm còn phục vụ trà, cà phê cùng nhiều loại đồ uống khác.
Hang Gió – Lạng Sơn
Hang Gió còn có các tên gọi: Động Thông Gió hay Mai Sao Phong động. Khu di tích Hang Gió thuộc Lũng Khòm (thôn Sao Thượng B), xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Khu di tích danh thắng Hang Gió bao gồm một vùng rộng lớn, với nhiều núi dá, hang đá tự nhiên thuộc dãy núi Bó Nhàn từ thôn Sao Thượng tới trung tâm xã Mai Sao. Trong đó hang động nổi bật nhất là hang Gió.
Hang Gió – Lạng Sơn
Đây là hang động có quy mô lớn, chiều dài hàng trăm mét, rộng đến 50 – 70 m, chiều cao có chỗ lên đến 30 – 40 m. Hang có 2 tầng và một tầng hầm, ít ngách phụ, trong hang it hiểm trở đi lại dễ dàng. Sàn hang tương đối bằng phẳng, vòm hang cao rộng, thoáng mát mang dáng dấp vòm nhà thờ. Vách hang có nhiều nhũ đá mang hình thù kỳ dị.
Đến thăm khu danh thắng hang Gió trước tiên phải thăm Hang Gió (động Thông Gió) bước lên 392 bậc hình chữ chi nối dài mới đến được Hang Gió, sau đó mới thăm các hang khác xung quanh như: Hang Công Chúa (tức hang Sân Khấu), hang Hoàng Tử (tức hang Sáng), hang Thiên Đình, hang Dơi, động Thủy Tiên (tức hang Nước).
Hang Lạng Nắc – Lạng Sơn
Hang Lạng Nắc có tên gọi khác là hang Miệng Hổ hoặc hang Treo (tên gọi của nhân dân địa phương). Hang Lạng Nắc nằm trong dãy núi đá vôi xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn. Hang ở ngay cạnh cây số 32 Quốc lộ 1A (cũ), cách thị trấn Đồng Mỏ 5km về phía Đông Bắc, cách UBND xã Mai Sao 400m về phía Nam. Đường đi đến chân núi thuận tiện, có thể dùng phương tiện ô tô. Nhưng để leo lên cửa hang thì cần có thêm một chút sức khỏe và sự kiên nhẫn của vận động viên leo núi.
Hang Lạng Nắc – Lạng Sơn
Hang Lạng Nắc ở độ cao khoảng 100m so với mặt thung lũng. Cửa hang rộng 18m, cao 16m, hướng về phía Đông, chếch Nam khoảng 200, rất thoáng mát, khô ráo. Chiều sâu của hang là 17m, mặt hang bằng phẳng, rộng khoảng 70m2. Dưới chân núi hang Lạng Nắc có suối Mai Sao, là đầu nguồn của sông Thương. Hang Lạng Nắc nằm trong một hệ sinh thái khá đa dạng: núi đá, núi đất, đồi, thung lũng, sông, suối, … Vì thế, hang Lạng Nắc rất thuận lợi cho sinh hoạt và kiếm sống của người nguyên thủy.
Khu linh địa cổ – Lạng Sơn
Khu linh địa cổ là một địa điểm du lịch tại Huyện Lộc Bình (Tỉnh Lạng Sơn thuộc vùng Đông Bắc Bộ). Cách trung tâm Tỉnh Lạng Sơn khoảng 34 km.
Khu linh địa cổ – Lạng Sơn
Với độ cao 1.190m so với mực nước biển, khu Linh địa cổ Mẫu Sơn là nơi thờ thần núi Mẫu Sơn có tên gọi là “Đức Tôn Thần Công Tịnh Quang Mậu, Hùng Trấn Đại Vương, Thượng Đẳng Phúc Thần”, của người Tày cổ (Mẫu Sơn, Lạng Sơn). Được khai quật vào năm 2003, nhưng phải đến năm 2013, khu Linh địa Mẫu Sơn được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nơi đây mang ý nghĩa của một di tích tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời là biểu tượng của sức mạnh văn hóa, thể hiện đời sống tinh thần phong phú người Tày cổ ở khu vực này.
Danh thắng Phặt Chỉ – Lạng Sơn
Di tích núi Phặt Chỉ thuộc khu núi phía Nam của Khu du lịch Mẫu Sơn, xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình – một địa danh nổi tiếng về khu nghỉ dưỡng, sinh thái và danh lam thắng cảnh của tỉnh Lạng Sơn.
Danh thắng Phặt Chỉ – Lạng Sơn
Di tích núi Phặt Chỉ là một trong ba ngọn núi lớn, cao nhất trong số núi đá tự nhiên trong dãy núi đá vôi phía Tây Nam của Khu du lịch Mẫu Sơn. Toàn bộ khu núi Phặt Chỉ và mặt bằng thảm cỏ với tổng diện tích khoảng trên 10 ha. Khu núi này có độ thoải dốc tự nhiên từ phía Bắc xuống phía Nam (khu vực này có ít cây rừng mọc, chỉ có thảm đồng cỏ rộng lớn). Bên cạnh đó là nhiều dãy núi lớn nhỏ xung quanh có độ cao trung bình khoảng ± 1.000m so với mặt nước biển (thấp hơn Khu du lịch Mẫu Sơn khoảng 100m).
Đứng trên đỉnh Phặt Chỉ vào những ngày trời quang, trong xanh ta có thể thấy toàn cảnh Khu du lịch Mẫu Sơn hiện ra huyền ảo, quyến rũ với những con đường nhỏ lượn quanh co bên sườn núi; những khu biệt thự mái đỏ nằm rải rác thấp thoáng hiện lên; đặc biệt, ở phía sau lưng núi có con đường quốc lộ rải đá cấp phối lên khu Du lịch Mẫu Sơn hiện ra ngoằn ngoèo kéo dài mãi vào những đám mây, tưởng như đó là đường đến chân trời. Ngay dưới chân núi Phặt Chỉ là những cánh rừng già nguyên sinh với đủ các giống, loài cây quí hiếm, cây bụi, tre, trúc, chè, sở, thông,.. và đặc biệt nơi đây có giống cây hoa quí hiếm là cây Đỗ Quyên nở hoa trắng vào tháng 2, tháng 3 cùng nhiều giống cây thảo dược quí hiếm khác.
Hiện nay núi Phặt Chỉ ngày càng khẳng định vị trí và ý nghĩa của nó đối với đời sống con người. Đây không chỉ là một nơi tâm linh với tín ngưỡng “đa thần” của người Dao Mẫu Sơn mà với vị trí, địa thế, cảnh quan môi trường thoáng đãng, những ngọn núi trùng trùng, điệp điệp; một cánh đồng cỏ xanh rì, rộng mênh mông, trải dài đến ngút tầm mắt… nó còn là một địa điểm lí tưởng để khám phá, du lịch, vui chơi.
Với những giá trị đặc sắc như trên, núi Phặt Chỉ đã được xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh vào năm 2012 (Quyết định số 1841/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn).
Khu du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên – Lạng Sơn
Là điểm nối giữa hai huyện Hữu Lũng – Bắc Sơn với tuyến giao thông liên huyện khá hoàn chỉnh, ngoài sự đa dạng về sinh học của khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, đến với xã Hữu Liên các bạn sẽ được khám phá loại hình du lịch sinh thái và du lịch khám phá cảnh quan tự nhiên.
Khu du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên – Lạng Sơn
Không chỉ đa dạng về sinh cảnh với khu rừng đặc dụng quí hiếm, những hang động núi đá và thác nước hùng vĩ, Hữu Liên còn là điểm du lịch sinh thái, cộng đồng hấp dẫn với nhiều giá trị về di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội và các trò chơi dân gian. Dạo quanh xã Hữu Liên, nổi bật giữa những thung lũng lúa nước bằng phẳng là những nếp nhà sàn rộng rãi, thoáng mát nằm lưng chừng mây núi của rừng già tựa như một bức họa thủy mặc làm say đắm lòng người.
Vườn hoa Tam Giác Mạch – Lạng Sơn
Vườn hoa tam giác mạch là một địa điểm du lịch tại Huyện Bắc Sơn (Tỉnh Lạng Sơn thuộc vùng Đông Bắc Bộ). Cách trung tâm Tỉnh Lạng Sơn khoảng 96 km.
Vườn hoa Tam Giác Mạch – Lạng Sơn
Tam Giác Mạch được người dân trồng tại xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn. Hoa nở rộ vào tháng 10, 11 thu hút đông khách tới tham quan, chụp ảnh. Hoa được người dân trồng tại các thung lũng, xung quanh là núi đá bao quanh. Để đến được ruộng hoa, du khách phải vượt qua những đoạn đường dọc theo bờ nương, vườn ngô của bà con.
Trung tâm khu du lịch Mẫu Sơn – Lạng Sơn
Đỉnh Mẫu Sơn cao 1,541 mét, được bao bọc xung quanh bởi bao gồm một quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ với đỉnh cao nhất là Phia Po (1.541 m, còn gọi là đỉnh Công hay Công Sơn – nơi đặt cột mốc 42, biên giới Việt Trung). Diện tích khu Mẫu Sơn khoảng 550km², nằm cách trung tâm thị xã Lạng Sơn 30km về phía đông bắc,cách thành phố Lạng Sơn 30 km.
Trung tâm khu du lịch Mẫu Sơn – Lạng Sơn
Đỉnh Mẫu Sơn là một nơi lý tưởng để nghỉ ngơi và thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng. Không khí rất trong lành và thiên nhiên phóng khoáng, tạo cảm giác gần gũi và thân thiết. Dọc đường đi, bạn còn có thể giao lưu với người dân tộc Dao, Tày, Mông, Nùng…đang gùi rau hay bó củi trên vai.
Về mùa đông có những năm nhiệt độ ở Mẫu Sơn xuống tới nhiệt độ âm và có thể có tuyết rơi, băng đá. Nhiệt độ trung bình ở đây là 15,5°C, đỉnh núi quanh năm có mây phủ. Mẫu Sơn nổi tiếng với các sản vật chè tuyết sơn, gà lôi sáu cựa, chanh rừng, ếch hương, rượu Mẫu Sơn…
Đến đây, chắc hẳn bạn đã hết thắc mắc “Lạng Sơn có gì chơi” rồi phải không? Nếu bạn đến với Lạng Sơn thì hãy ghé thăm những địa điểm du lịch trên đây để khám phá vẻ đẹp của mảnh đất này nhé. Bạn sẽ không phải thất vọng đâu. Chúc các bạn có một chuyến đi du lịch tại Lạng Sơn thật vui vẻ và nhiều ý nghĩa.
Đăng bởi: Nguyễn Hào
Từ khoá: Lạng Sơn có gì chơi?
Để lại một bình luận